TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tư liệu
NHÂN ĐỌC “THI NHÂN VIỆT NAM” CỦA HOÀI THANH VÀ HOÀI CHÂN
NHÂN ĐỌC “THI NHÂN VIỆT NAM” CỦA HOÀI THANH VÀ HOÀI CHÂN
(trích)
Kiều Thanh Quế
[….]
Trong số các nhà thơ có tên trong quyển Thi nhân Việt Nam, tuy cũng có người đáng lẽ không nên liệt vào - và đọc họ bao nhiêu lần tôi cũng không có được cảm giác nào rõ rệt cả - nhưng có hai thi sĩ làm tôi bực tức nhất là: Hàn Mặc Tử và Bích Khê. Cái chết của Hàn Mặc Tử đã ồn ào lắm. Và các nhà phê bình không phải đã khen thơ Hàn Mặc Tử một cách vu vơ. Nhưng nhà thơ ấy đã đưa ra nội một Ave Maria! cũng đủ làm mất hết thiện cảm của tôi rồi.
[…..].
Đến Bích Khê mà Hàn Mặc Tử hết lời khen tặng trong bài tựa tập Tinh huyết, tôi rất lấy làm lạ sao tác giả Thi nhân Việt Nam, đã viết được những trang thật giá trị, lại cũng thiếu sáng suốt như Hàn Mặc Tử mà bảo rằng: “Tôi đã gặp trong Tinh huyết (của Bích Khê) những câu hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam. "Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng, / Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông".
Hai câu ấy có hay vào bậc nhất không, khỏi nói tất ai cũng biết nó may ra chỉ đọc nghe được mà thôi.
Đã hết đâu! Đối với bài Duy tân tác giả Thi nhân Việt Nam, còn dám bảo: “Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài Duy tân. Tôi thấy trong đó những câu thật đẹp”.
Xin tìm một vài câu thật đẹp ấy:
… Vì hình dung những sắc mát non tơ,
Như mặt trời lọc qua khóm liễu, một
Hoàng hôn…
Trong ba câu thơ ấy, tôi thấy Bích Khê làm một cái liên cước (enjambement) sai luật thơ Pháp.
Theo luật thơ Pháp, phàm muốn làm liên cước, người ta chỉ được phép nối liền câu thơ trên với câu dưới bằng một động từ (verbe) với một túc từ (conplément), hay bằng một chủ từ (sujet) với một động từ, như trong hai câu thơ này của Trần Huyền Trân:
Tôi nghe xa lắm làn mây trắng
Rời bóng kinh thành lững thững đi
(Giao thừa)
Cái liên cước của Bích Khê lại nối liền một quán từ (article) với một danh từ (nom): chữ một trong câu thứ hai là quán từ nối liền với hoàng hôn trong câu kế là danh từ. Rõ ràng Bích Khê không hiểu luật thơ!
Thơ của Bích Khê, Hàn Mặc Tử đầy tưởng tượng. Nhưng các hình tượng, do óc tưởng tượng của hai ông tạo ra, rời rạc, vấp váp và rơi như lá vàng buổi chiều thu!”
[………..]
Nguồn:
- Tri tân, Hà Nội, s. 134 (tháng 3/1944)
- Trích theo sưu tập Tạp chí Tri Tân (1941-1945). Phê bình văn học, Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm biên soạn, Nxb. Hội Nhà Văn, H., 1998, tr. 186-188.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.