TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Giọt lệ trích tiên
Sông dài chảy tận về đâu?
Non xanh xanh mãi bên sầu thế nhân!
Lòng này gởi Hán Vân có được
Xin gởi về non Ngọc đài Dao
Bụi hồng cách với hoa đào,
Bụi hồng cách mấy hoa đào nẻo xưa!
Nước lạnh lùng sông đưa lá thắm,
Cuốn nỗi lòng thăm thẳm nào chăng?
Non còn mải ngó vừng trăng,
Bàn câu nhân sự sao bằng mộng mơ
Vắng tiếng hạc bơ vơ dưới thế,
Gảy tiên cầm điệu lẻ trong sương;
Sông Ngân cách mấy sông Tương
Sông Ngân cách với sông Tương mấy trời!
Chưa xong một tiếng cười Bao Tự
Hẹn ngày về mấy độ chiêm bao
Gió hương đưa lại đồng sao
Trâu bầy ăn tại đồng cao xanh rì
Lại đưa đến Diêu Trì thuở trước
Hội bàn đào chén ngọc rời tay...
Ao xuân lồng lộng bóng mây
Rèm châu tuyết phủ mây bay nửa lầu.
Sông dài những tương tư trời rộng
Non xanh còn đứng mộng vừng trăng. (*)
-----------------
(*) Theo bản thảo do gia đình gửi tới, bài thơ đến đây là ngừng lại. Chúng tôi đoán nhà thơ làm dở rồi để lại. (Chú thích của Biên tập Nxb. Hội Nhà Văn, 1997).
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.