TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tư liệu
HƯƠNG THƠ
HƯƠNG THƠ
Huy khanh
Thơ Bích Khê tràn ngập mùi hương, có thể nói đó là một thế giới toàn hương từ cảnh vật chung quanh lan tỏa ra:
Đây bát ngát và thơ như sữa lúa
Nhựa đương lên, sức mạnh của lòng thương
Mùi tô hợp quyện trong tơ trăng lụa
Đây dạ lan hương, đây đỉnh trầm hương
Đây bát ngát và thơm như sữa lúa
Hồn xạ hương phơ phất ở trong sương...
(MỘNG CẦM CA)
Đến cả châu thân nhà thơ cũng quyện với thơ làm một:
Chàng ơi đêm nín thở
Để hồn biến ra hương
(NGŨ HÀNH SƠN Tiền)
Hương hoà nhập vào tất cả, đồng hoá với tất cả sự vật. Như trăng cũng là hương:
Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc
Như nắng thơm hớp đặc cỏ nguồn hương
(NÀNG BƯỚC TỚI)
Lời nói cũng là hương:
Lời nức ra hơi hương
Dìu dịu tỏa trong buồng
(HÀN MẠC TỬ)
Thậm chí âm nhạc trong thời gian đó cũng được ướp hương phảng phất dìu dặt:
Ta những muốn mùa đông nhường lại chỗ
Nhạc gầy hương, hương gầy nhạc, lan man...
(ĐỒ MI HOA)
Tất cả các loại hương ấy được nhà thơ tiếp nhận, tinh lọc, thăng hoa qua một khiếu thẩm định cực kỳ nhạy bén, tinh tế dường nhưđến tận cùng tế bào hương, từng chiều sâu thẳm của hương. Đến độ chừng có thể vật chất hoá nó, cân đo đong đếm được:
Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nàng nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ
(MỘNG CẦM CA)
Hay:
Tìm ngõ nhà em anh sẽ thấy
Khóm lan thơm nặng khí ưu phiền
(LÀNG EM)
Vì thế nhà thơ có thể lắng nghe đưọc cả âm thanh của hương nữa:
Phăng mạch đêm, hương vỡ, ứa ngầm tinh
(MỘNG CẦM CA)
Và đoán chừng bóng dáng của hương thấp thoáng đâu đây, khi xa khi gần, truy tìm nó để chộp lấy:
Đâu đây lãng đãng bầu hương nhạc
Phất phất gần như phất phất xa
(TÍNH CHẤT NGÀN XUÂN)
Đến cả không gian cũng được nhuộm một mùi không định nghĩa được mà chỉ có nhà thơ mới phát hiện ra:
Gió về mang cả mùi lăng tẩm
Buồn cắt lênh đênh những miếng đen...
(DẶM MÒN)
Không chỉ say đắm với những loại hương cụ thể, Bích Khê còn mơ thấy, tưởng tượng thấy những mùi thơm ảo giác qua mối ám ảnh về nhục cảm ái ân, vốn là nét độc đáo táo bạo trong thơ ông:
Này, muôn ngọc nữ ngớp y thường
Tóc quyện hay mùi tô hợp hương...
(NGHÊ THƯỜNG)
Từ mùi tóc đến hươg thơm da thịt hiện về trong mộng:
Gió thiệt đa tình hôn mặt hoa
Thơm tho mùi thịt bắt say ngà...
(HIỆN HÌNH)
Đó hoàn toàn là những mùi hương không có thật từ những con người không có thật mà kinh nghiệm chung đụng của nhà thơ trong đời sống riêng lúc đó chắc không nhiều:
Nàng Vệ Nữ theo nàng Vệ Nữ
Áo âm dương gió tóc thơm rừng…
(LÊN KIM TINH)
Từ kinh nghiệm thẩm định hương thơ của Bích Khê cho thấy vai trò của khứu giác trong nghệ thuật sáng tạo của ông rất đặc biệt. Mà điều này lệ thuộc nhiều vào hoạt động của bộ phổi: hít, thở, hít vào, thở ra. Đó là hoạt động được tượng hình, thể hiện qua những hình ảnh mô tả mối quan hệ giao tiếp giữa tác giả và các loại mùi hương:
Ô nàng tiên nương! Hớp nhạc đầy hương
(NHẠC)
Hoặc:
Ngừng hơi thở ta nép trong bóng lá
Để vần thơ theo nhịp điệu thuyền quyên...
(Đồ MI HOA)
Tiếng thở, hơi thở ở đây là một yếu tố gắn liền với cơ thể sinh lý của nhà thơ:
Những dáng hình, thanh khí... - Giữa mông mênh
Đường nhiếp ảnh sắc khua màu - Tiếng thở
(DUY TÂN)
Hay nó xuất phát từ sự vật vốn đã được tác giả nhân cách hoá theo mình:
Âm thanh gì sắp sửa... Ngọc Kiều ơi!
Hay hơi thở cùa hoa hồng mơ mộng
(MỘNG CẦM CA)
Năng khiếu khứu giác (ngửi) vô cùng phong phú, tinh vi của Bích Khê sở dĩ có được, đậm đặc ở đây phần nào bắt nguồn từ chính căn bệnh của ông: bệnh lao đến chết. Những bệnh nhân lao thường đều có một cảm quan khứu giác cực nhạy, tinh tế hơn hẳn người thường do sự hoạt động bất bình thường của hai lá phổi. Trong giai đoạn sáng tác đầu khi ông chưa mắc bệnh (tập Mấy dòng thơ cũ) không hề thấy xuất hiện năng khiếu khứu giác đặc biệt kể trên, điều trái ngược hẳn với giai đoạn sau đã mang dấu ấn của bệnh lao:
Anh tính ôm chồm lấy mắt mơ
Lấy môi, lấy má, lấy ngây thơ
Để anh nút ớn mùi hương ấm...
(ẢNH ẤY)
Và:
Nhẹ nhàng nhịp nhàng thở đều trong sương
…Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ...”
(NHẠC)
Nếu thơ Bích Khê còn giàu chất nhạc là do ông rất sành về nhạc (theo Chế Lan Viên), thơ Hàn Mạc Tử rên xiết đau nhức vì bệnh phong (với vai trò của xúc giác tốỉ thượng) thì bệnh lao đã góp phần làm nên những bài thơ kỳ lạ của Bích Khê. Đó là dòng thơ bệnh - cái giá sinh mạng mà nhà thơ phải trả tuy thơ bệnh của Bích Khê rõ ràng thanh khiết, sạch sẽ, êm ái hơn thơ bệnh của Hàn Mạc Tử do cơ chế bệnh gây nên.
Khó ai quên được mùi hương hoàng lan kỳ diệu khó tả của Thạch Lam - một người cũng đã chết vi bệnh lao. Khó ai không bồi hồi khi đọc lại những lời trăn trối đẫm đầy mùi hương của Bích Khê - không phải là hương thơm tuởng tượng nữa mà là mùi của cái chết đang dần đến:
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.