Chợt nhớ tới chuyện cố Giáo sư Đinh Gia Khánh, cựu Chủ nhiệm bộ môn Cổ-Cận-Dân (gọi tắt 3 chuyên ngành Văn học Trung đại, Cận đại và Văn hóa dân gian Việt Nam) thuộc Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Có lần thầy rất lúng túng trước mẫu khai bản lý lịch mà Phòng Tổ chức Cán bộ yêu cầu. Mẫu tờ khai có mục “Trình độ văn hóa”. Thầy nghĩ một hồi rồi viết “ngang 10”.
Với tiểu thuyết “Lãn Ông“, đặc biệt là “Vạn Xuân“, nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray đã mở ra một lối viết tiểu thuyết lịch sử mới, ít nhất cho Việt Nam, không lệ thuộc quá nhiều vào sự kiện lịch sử, vào nhân vật lịch sử, mà bằng trí tưởng tượng nhằm thể hiện được tinh thần của thời đại lịch sử.
Với bất cứ lý do nào dẫn tới các cuộc chiến tranh đó thì bản chất của mọi cuộc chiến tranh vẫn vậy: máu chảy và cái chết. Và ở bất cứ cuộc chiến tranh nào, từ máu chảy và cái chết lại vang lên bài ca hòa bình. Lửa đèn của Phạm Tiến Duật thực ra không phải là một bài ca về chiến tranh. Đấy là một bài ca lớn về hòa bình. Nó tàn khốc, đau đớn nhưng đẹp và vang lên trong nhịp điệu da diết đến bất diệt.
Ai cũng biết rằng Mayakovsky cả đời phải lòng đắm đuối Lilya Brik trong một “hình tam giác tình yêu” đầy éo le. Thế nhưng, “nàng thơ vĩnh cửu” đó đã không thể cản ông có những khoảnh khắc đầy lãng mạn ngoài luồng khác.
(Kỷ niệm 110 năm ngày sinh nhà thơ Hàn Mặc Tử, 22.9.1912-2022)
Trong nền thơ Việt Nam hiện đại, Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lớn. Sau khi ông qua đời tại trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn) ngày 11.11.1940 thì dư luận đã xao xuyến vì một tài thơ sớm ra đi vào tuổi 28, sau 4 năm bị chứng bệnh ngặt nghèo, trong hoàn cảnh bi thảm. Về nghệ thuật thơ ông, lời khen cũng lắm, lời chê cũng nhiều.
Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút nổi bật của dòng thơ lãng mạn Việt Nam. Ông đã biến nỗi đau của đời mình thành khao khát được sống, được yêu, được sáng tạo đến vô cùng… Nỗi đau tận cùng và tình thơ mạnh mẽ đã tạo nên một Hàn Mạc Tử trong lòng người yêu thơ Việt Nam. Hàn Mặc Tử sinh vào ngày này cách đây 110 năm, ngày 22.9.1912.
Nếu hiểu thi pháp học là bộ môn khoa học lấy hình thức nghệ thuật làm đối tượng trung tâm, thì những quan điểm lý thuyết tiến bộ của Bakhtin đã góp phần quan trọng trong sự tái xuất của thi pháp học ở Việt Nam vào những năm 1980. Không có một quan điểm hợp lý về hình thức nghệ thuật trên phương diện lý thuyết thì cũng không thể có một thái độ ứng xử phù hợp đối với những thực hành cách tân trên góc độ hình thức nghệ thuật. Do vậy, có thể nói, thi pháp học của Bakhtin cũng có vai trò nhất định trong bước chuyển của đời sống sáng tác văn học giai đoạn đổi mới.
Thái An, tên thật là Lê Ngọc Liên sinh năm 1985 tại Hà Nội, tốt nghiệp đại học năm 2007, thạc sĩ năm 2017 tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội); và, hiện cũng đang công tác tại một trường đại học ở Hà Nội. Như thế, mảnh đất “ngàn năm văn hiến” Thăng Long – Hà Nội này đã trở thành cuộc sống, gắn bó, sẻ chia và cả để Liên gửi gắm những yêu thương, vui buồn, tâm sự.
Chuyến đi chúng tôi dừng chân tại thành cổ Đồ Bàn (An Nhơn – Bình Định). Tháp Cánh Tiên lấp ló trong màn sương mờ ảo. Nhà thơ Trần Thị Huyền Trang người dẫn đường nói, đây chính là cái nôi thi ca của nhóm “Bàn Thành tứ hữu” gồm Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan và Quách Tấn. Cánh chim đầu đàn dầy công xây dựng nhóm thơ Bình Định này chính là nhà thơ Yến Lan (1916-1998). Ông có tên thật là Lâm Thanh Lang.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.