Bút danh Mường Mán xuất hiện lần đầu trên tạp chí Văn năm 1965, với hai bài thơ ngắn là “Thiếu thời” và “Mùa hạ”. Thế nhưng mãi tới năm 1995 ông mới in tập thơ “Vọng” và năm 2008 in tập thơ “Dịu khúc”.
Đọc Bệnh nhân người Anh ta như được gặp một phiên bản khác của cuốn Lịch sử của Herodotus, chỉ khác, trong cái cốt cách diễm tình hơn và đau thương hơn. Mỗi vùng địa chất ghé ngang qua đây đều mang trong mình một thứ vàng ròng - linh tính văn chương - một khi đã gieo khó mà gặt được.
Một điều rất thú vị là trong số nhà văn mà tên tuổi, văn nghiệp gắn với miền đất này có rất nhiều người đã từng ở, từng công tác, là công dân một thời của phố Lý Nam Đế, Hà Nội - nơi Tạp chí Văn nghệ Quân đội đặt trụ sở tòa soạn - như nhà văn liệt sĩ anh hùng Nguyễn Thi, nhạc sĩ liệt sĩ anh hùng Hoàng Việt, nhà văn Hoàng Văn Bổn, nhà văn Nam Hà, nhà thơ Xuân Sách… và tướng quân thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ.
Đây là trường thiên thơ có số lượng câu thơ lớn nhất từ trước tới nay ở Việt Nam, và là trường thiên viết về cuộc đời hoạt động cách mạng vì dân vì nước của Bác Hồ, một vĩ nhân của thế kỷ 20. Với trường thiên Một người – thơ – tên gọi, Nguyễn Thế Kỷ đã viết trong 10 năm ròng, sau vài chục năm tích lũy cả tình yêu thương và tư liệu sống về Bác Hồ.
Bà Nguyễn Bính Hồng Cầu cũng là người con duy nhất nối nghiệp cầm bút của cha mình. Bà Nguyễn Bính Hồng Cầu đã xuất bản các tập thơ Ca dao một nửa, Nhặt bóng mình, Đau đáu trăm năm, Thức với miền xưa... Bà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và từng đảm nhiệm chức vụ Phó Giám đốc Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh từ năm 1998 đến năm 2008. Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh phối hợp với Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh vừa xuất bản cuốn sách Cha tôi - nhà thơ Nguyễn Bính của bà Nguyễn Bính Hồng Cầu. Ngày 16/2 vừa qua, Hội Nhà văn đã tổ chức giới thiệu một số tác phẩm, trong đó có cuốn sách này.
Khi Hà Nội, nắng sớm đã kéo những tàng sấu già mốc và xà cừ lên cao, hòa với màu xanh thẳm của bầu trời; cùng những đám mây trắng nấn nuối trôi, như muốn đem cả hai màu xanh về một phương trời khác.
Từ một cái Tôi lớn tiếng nhưng dậm chân một chỗ đến một cái Tôi trưởng thành, cô độc đã làm nền cho thi nhân chứng tỏ sức sống sau những ám ảnh, buồn lo; ánh sáng rọi làm tan biến những tối ám địa ngục, như nắng lên sau những ngày mưa liên lỉ, như sau một giấc ngủ vùi – ngủ đã đời! Nghĩa là đã có hy vọng, có những vệt nắng!
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.