• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Diễn đàn lý luận
 
KHI THANH THẢO ''THẮP ĐÈN LÊN'' -Tiểu luận TRẦN ĐĂNG

KHI THANH THẢO ''THẮP ĐÈN LÊN'' -Tiểu luận TRẦN ĐĂNG



 11/11/2022 08:23:58 PM         


 TRẦN ĐĂNG

 

Hồi chiến tranh (trước năm 1975), nhà thơ Thanh Thảo có hai bài thơ được cất trong ba lô của rất nhiều người lính cùng thời với ông nhưng lại không xuất hiện trên mặt báo. Một bài có tên “Thử nói về hạnh phúc”, bài còn lại là “Một người lính nói về thế hệ mình”. Trong “Thử nói về hạnh phúc”, ông viết: “Tôi thắp đèn lên bốn bên là đất/ mỗi lúc bom rung đất rơi đầy mặt/ đất rơi đầy giấc mơ…”. Thanh Thảo đã “thắp đèn” cho đời mình và cũng là để nhìn rõ thế hệ của ông thời trận mạc.

Nhà thơ Thanh Thảo.Ảnh: TRẦN ĐĂNG
Nhà thơ Thanh Thảo.Ảnh: TRẦN ĐĂNG

 

Loanh quanh bút danh

Tôi chơi với Thanh Thảo lúc tôi mới đi lính về (1987), nay chẵn 30 năm nhưng hỏi ông vì sao lại đặt bút danh như con gái vậy, ông luôn “né” câu hỏi ấy, dù ông từng đề cập bút danh này: “Tôi đặt tên tôi là cỏ/ mọc phất phơ mọc vớ vẩn ngoài đồng”. Ông tên thật là Hồ Thành Công, sinh năm 1946 tại huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông là một lão thành cách mạng, cùng thời và cùng làng với cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - ông Hồ Thiết, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi trong kháng chiến chống Pháp. Hồ Thiết sinh năm 1900, đến năm ông 46 tuổi mới đẻ đứa con đầu lòng Hồ Thành Công - có lẽ để kỷ niệm ngày thành công của Cách mạng Tháng Tám nên đặt tên con trai vậy chăng? Đó cũng là đứa con duy nhất của ông bà Hồ Thiết.

Một số trường ca tiêu biểu của Thanh Thảo: Những người đi tới biển, Trẻ con ở Sơn Mỹ, Đêm trên cát, Khối vuông rubich, Bùng nổ của mùa xuân, Trường ca chân đất… Các giải thưởng: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cho tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ (1978), Trường ca chân đất (2012); Giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật đợt I (2001).

Lẽ ra, chỗ đứng thường tình của những “hạt giống đỏ” mà lại con một như Thanh Thảo ngày ấy phải là ở trường đại học của một nước xã hội chủ nghĩa nào đó, nhưng ông lại chọn “trường đại học Trường Sơn” để… làm thơ. “Mang dao sắc con vào tuyệt lộ/ Má đường xa trông đợi mỏi mòn”. Sau này, khi đã có con, và con ông đã từng làm ông “mỏi mòn”, Thanh Thảo mới bật lên câu thơ “tự kiểm” đầy thương cảm như vậy, chứ hồi đầu năm 1970, ông “hăng” lắm, phải vượt Trường Sơn cho bằng được, bất kể những can ngăn. Vì làm thơ nên ông phải loanh quanh để chọn bút danh chứ làm nhà khoa học hoặc nhà lãnh đạo thì mãi mãi vẫn mang cái tên cha mẹ đặt cho là Hồ Thành Công chứ làm gì có cái tên “con gái” Thanh Thảo như mọi người đã biết.

Ông kể, thời còn là sinh viên của Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông cùng nhóm bạn mình gồm 4 người, trong đó có GS. Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, có tập tành làm thơ. Mỗi người lấy một bút danh, Hồ Thành Công thì lấy bút danh Hoàng Thanh Nam. Năm 1968, lần đầu tiên thơ ông xuất hiện trên Tạp chí Văn nghệ quân đội với bút danh này cùng bài thơ “Em Nga”. Bài thơ ấy, nay ông quên rồi vì nó chưa bao giờ xuất hiện trong bất cứ một tập thơ nào sau này của Thanh Thảo dù “Em Nga” đã cứu đói cho nhóm bạn ông một bữa rượu thịt ra trò với khoản nhuận bút. Dạo đó, với những người làm thơ trẻ, chưa thành danh mà được đăng thơ trên một tạp chí văn học uy tín như Văn nghệ quân đội là “oách” lắm. Lẽ ra, cái tên Hoàng Thanh Nam sẽ theo ông đến hết con đường văn học nhưng rồi đột ngột, ông “ngoặt bóng” đi theo một lối khác: vượt Trường Sơn. Để đến năm 1974, tạp chí Tác phẩm mới do Chế Lan Viên làm Thư ký tòa soạn bất ngờ nhận được tập thơ từ chiến trường gửi ra dưới một cái tên lạ hoắc: Thanh Thảo. Nhận ra một tài năng thơ qua tập thơ này, lần đầu tiên Chế Lan Viên phá lệ để đăng một lúc 14 bài thơ trong một số tạp chí! Bút danh Thanh Thảo “đóng đinh” trên thi đàn từ đó.

 

Thắp đèn lên

Cuộc chiến tranh chống Mỹ đã sản sinh ra một thế hệ nhà thơ tài năng nhưng đọc rất nhiều tập thơ của các bậc tiền bối nổi danh ngày ấy, tôi chưa thấy ai viết những câu thơ đáng để “giật mình” thế này, viết ngay từ khi mà ai cũng coi việc ra trận như… ngày hội, trừ Thanh Thảo:

“Chúng tôi không muốn chết vì hư danh
Không thể chết vì tiền bạc
Chúng ta lạ xa với những tin tưởng điên cuồng
Những liều thân vô ích
Đất nước đẹp mênh mang
Đất nước thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt
Chỉ riêng cho Người chúng tôi dám chết”

(Thử nói về hạnh phúc - 1972)

Viết được những câu thơ như thế, Thanh Thảo đã tự nhận biết ý nghĩa việc lên đường ra trận của ông và thế hệ ông. Ông đã thắp ngọn đèn cho chính mình để soi rọi vào những ngóc ngách của cuộc chiến bằng tất cả sự mẫn cảm của một nhà thơ cầm súng, hoàn toàn không bị chi phối bởi bất cứ một sự cổ xúy nào từ bộ máy tuyên truyền khổng lồ thời bấy giờ. Đọc cả hai bài thơ từng được lưu giữ trong ba lô của người lính ở cả hai phía thời ấy, tôi mới hiểu vì sao, chúng (hai bài thơ) không được phép có mặt trên bất cứ phương tiện truyền thông nào lúc bấy giờ. Chính xác là, bài “Một người lính nói về thế hệ mình” đã từng in trên tạp chí Văn nghệ giải phóng nhưng nó đã bị cắt bỏ trước khi tạp chí chính thức phát hành. Nhiều người lính đã bí mật chép trong sổ tay của họ bài thơ ấy. Thanh Thảo đã thắp ngọn đèn cho chính ông và thế hệ ông:

“Thế hệ chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình
soi sáng đường đi tới
… chân dép lốp đạp mòn trăm ngọn núi
mà không hề rợp bóng xuống tương lai
” (1973).

 

Thanh Thảo… báo

Thanh Thảo kể, hồi ở R (Ban Binh vận - Trung ương cục miền Nam), mỗi ngày ông viết hai bài báo, một cho Đài Phát thanh giải phóng, một cho Đài Tiếng nói Việt Nam. Viết báo lúc ấy như một nghĩa vụ bắt buộc chứ hoàn toàn không có nhuận bút. Ngoài “định mức” trên cho hai đài, ông lặng lẽ làm thơ. Tập thơ “Dấu chân qua trảng cỏ” được ông viết từ khi vượt Trường Sơn rồi xuống chiến trường Nam Bộ vào quãng thời gian ấy. Một nhà báo chuyên nghiệp như vậy nhưng sau năm 1975, Ban Binh vận giải tán, Thanh Thảo phải lang thang cơ nhỡ một thời gian. May nhờ có nhà văn Nguyễn Chí Trung “cứu” ông về Trại sáng tác khu Năm chứ không thì chẳng biết đời ông trôi về đâu.

Thanh Thảo  tặng quà cho trẻ em Sơn Mỹ.
Thanh Thảo tặng quà cho trẻ em Sơn Mỹ.

Mười năm Thanh Thảo sống ở Quy Nhơn (1979 - 1989), làm đến chức… Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Nghĩa Bình nhưng hiếm khi ông đến cơ quan và có lần bị “cắt lương” trong 6 tháng liền nhưng ông vẫn sống khá ung dung nhờ… viết báo, dù hồi ấy, báo chí không sôi động như bây giờ. Ông viết báo với một thái độ chuyên nghiệp và rất cầu thị. Từ những tờ báo “danh tiếng” đến báo cấp… xã phường, ông đều viết với một tâm thế như nhau và cũng chẳng hề phân biệt “đẳng cấp” của nó. Tôi chưa thấy ai tuổi ngoài bảy mươi rồi mà “cày” khỏe như Thanh Thảo cả. Nhiều nhà báo lấy làm ngạc nhiên là tại sao lúc 9 giờ đêm còn thấy ông ngồi quán bia “tám chuyện” với anh em mà sáng ra đã có một bài bình luận “sắc lẹm” trên một tờ báo nào đó. Ông viết hồi nào mà nhanh vậy? Trả lời luôn là ông viết lúc... sau 9 giờ một chút nếu hôm đó có tòa soạn nào cần bài bình luận gấp gáp của ông. Có những mùa EURO hay World Cup, mỗi đêm ông “sản xuất” đến 3 bài bình luận về 3 trận đấu cho 3 tờ báo khác nhau. Ròng rã cả tháng như thế, không bỏ bữa nào nếu như các tòa báo cần bài của ông.

Có thể nói Thanh Thảo là một tấm gương lao động miệt mài với nghề, từ báo đến thơ. Ở cái tuổi 70 rồi nhưng vẫn sòn sòn mỗi năm viết một trường ca, quả là… siêu nhân chứ chả phải người thường. Tôi biết chi tiết này vì vừa mới nhận một lúc đến 5 quyển sách mới ra lò của ông, trong đó có 3 trường ca: một về cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một về người Mông ở Hà Giang và một về Lê Đại Cang, một ông quan có quá nhiều thăng trầm thời nhà Nguyễn. Mười lăm trường ca và 10 tập thơ cho một đời cầm bút như Thanh Thảo, quả là mơ ước của rất nhiều nhà thơ vậy.

 Ngọn đèn mà ông đã thắp lên trong một căn hầm nào đó ở chiến khu thời chiến tranh đã được thay thế bằng bóng đèn điện. Chất liệu về đèn thì có thể đã thay đổi nhưng niềm đam mê với công việc thì chưa bao giờ vơi trong con người này. Hỏi ông, già rồi sao không nghỉ cho khỏe mà “cày” chi dữ vậy? Ông cười: “Làm thơ hay viết báo như thở vậy. Không thở được nghĩa là chết đấy. Tôi vẫn còn thở được mà”.

Tôi biết, ông đang thắp đèn lên để “thở” ra những bài báo tết sắp tới, đặng kiếm ít đồng nhuận bút mà giúp đám trẻ con ở Sơn Mỹ - nghĩa cử mà ông đã làm hằng năm từ hơn 20 năm nay.

TRẦN ĐĂNG

Từ khóa: Từ khóa:  Thanh Thảo thắp đèn lên,  Trần Đăng,  Phạm Đương, 


Tin tức khác

· TRANG CUỐI NGUYỄN ĐÌNH THI -Tiểu luận VŨ QUẦN PHƯƠNG
· ''NẾU NGÀY MAI EM KHÔNG LÀM THƠ NỮA''
· LÂM HUY NHUẬN - NGƯỜI TRONG GƯƠNG ẤY CÒN ĐAU HƠN MÌNH
· DỆT CÂU VĂN TIẾNG ANH BẰNG TÌNH THÂN NƯỚC VIỆT -Tiểu luận NGUYỄN PHAN QUẾ MAI
· KHI NHÀ VĂN BỊ... CHÊ -Tiểu luận TẠ DUY ANH
· NHỮNG ''VĂN BẢN TÂM HỒN'' CẤT LÊN TỪ ĐỜI SỐNG
· NHÌN LẠI VĂN XUÔI VIỆT 2022 -Tiểu luận PHÙNG GIA THẾ
· NGÀY XUÂN ĐỌC THƠ NHẤT LINH -Tiểu luận LÊ MINH QUỐC
· NHÀ THƠ GIANG NAM ĐÃ VỀ VỚI ''QUÊ HƯƠNG'' XANH THẲM
· HỆ GIÁ TRỊ HỒ CHÍ MINH -Tiểu luận THANH THẢO
· NGÀY XUÂN NGẪM CHUYỆN NGŨ HÀNH - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· TỪ VIỆC THĂM TẾT CỦA BÁC HỒ, NGHĨ VỀ TẤM LÒNG LÃNH TỤ
· NHỮNG TÁC PHẨM BỊ LÃNG QUÊN 70 NĂM CỦA NHÀ VĂN NAM CAO -Tiểu luận LẠI NGUYÊN ÂN
· DẤU CHÂN NHỮNG NGƯỜI LÍNH TRẺ VÀ THƠ THANH THẢO -Tiểu luận LẠI NGUYÊN ÂN
· TRẦN THUẬT NGỮ: KHÔNG GIAN VÔ BIÊN - THỜI GIAN VÔ HẠN -Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· CÓ MỘT ''VĂN NGHỆ QUÂN ĐỘI'' GIỮA CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM -Tiểu luận NGÔ VĨNH BÌNH
· KHÔNG GIAN VĂN HÓA TÂY NGUYÊN TRONG THƠ BÙI MINH VŨ
· THÁI BÁ LỢI: CHUYÊN ĐI TU VÀ LÍNH CHIẾN -Tiểu luận THANH THẢO
· SỰ ÁM ẢNH CỦA MÔI TRƯỜNG SÔNG NƯỚC VÀ VĂN HÓA NÔNG NGHIỆP TRONG NGÔN NGỮ VIỆT NAM -Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· TÀI TỬ LÀNG NHO: TÀI TỬ LỤY TÌNH -Tiểu luận LÊ HỒNG KHÁNH

Tin tức mới
♦ TRANG CUỐI NGUYỄN ĐÌNH THI -Tiểu luận VŨ QUẦN PHƯƠNG (29/01/2023)
♦ ''NẾU NGÀY MAI EM KHÔNG LÀM THƠ NỮA'' (29/01/2023)
♦ LÂM HUY NHUẬN - NGƯỜI TRONG GƯƠNG ẤY CÒN ĐAU HƠN MÌNH (28/01/2023)
♦ DỆT CÂU VĂN TIẾNG ANH BẰNG TÌNH THÂN NƯỚC VIỆT -Tiểu luận NGUYỄN PHAN QUẾ MAI (28/01/2023)
♦ KHI NHÀ VĂN BỊ... CHÊ -Tiểu luận TẠ DUY ANH (28/01/2023)
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 982016
Trong thang Trong tháng: 85018
Trong tuan Trong tuần: 121807
Trong ngay Trong ngày: 121786
Truc tuyen Trực tuyến: 21

Tạp chí BẤT ĐỘNG SẢN NHÀ ĐẤT VIỆT NAM

TẠP CHÍ BẤT ĐỘNG SẢN NHÀ ĐẤT VIỆT NAM

Designed by VietNetNam