TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
NƠI RA ĐỜI CỦA CA KHÚC 'TIẾN VỀ HÀ NỘI' CỦA VĂN CAO
NƠI RA ĐỜI CỦA CA KHÚC 'TIẾN VỀ HÀ NỘI' CỦA VĂN CAO
TỪ: Vanvn- Cập nhật ngày: 12 Tháng mười, 2021 lúc 00:20
Đến nay, nhiều người vẫn coi ca khúc “Tiến về Hà Nội” của nhạc sĩ Văn Cao là “Khúc ca khải hoàn” của người Hà Nội và cho rằng, ca khúc này còn chứa đựng khá nhiều cái “lạ” cả trong dự cảm, tư duy sáng tạo của tác giả và cả nơi nó được sinh ra.
Nhạc sĩ Văn Cao.
Cảm hứng sáng tạo của nhạc sĩ
Khúc khải hoàn hoành tráng “Tiến về Hà Nội” không phải là cảm xúc bất chợt bùng phát trong ngày trở về như tên gọi của ca khúc mà là sức sáng tạo của nhạc sĩ, kết tinh dự cảm về chiến thắng tất yếu của cách mạng từ 5 năm trước đó, để ra đời vào năm 1949.
Chính tác giả cũng không được nghe giai điệu do mình tạo ra trong ngày tiếp quản Thủ đô vì lúc đó ông đang cùng Đoàn cán bộ đi công tác nước ngoài.
“Tiến về Hà Nội” không xuất xứ từ Thủ đô kháng chiến gió ngàn ở Việt Bắc mà lại được viết ở một nơi không xa Hà Nội là mấy. Đó là một vùng quê chiêm trũng thuộc Khu Cháy, huyện Ứng Hòa (tỉnh Hà Tây cũ, nay là Thành phố Hà Nội) – căn cứ kháng chiến phía Nam Hà Nội, nơi nhiều cán bộ của Xứ ủy Bắc kỳ, Liên khu III và Hà Nội, Hà Đông (cũ) hoạt động.
Rõ ràng cảm hứng sáng tạo với tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin vững chắc vào tương lai đất nước của người nghệ sĩ – chiến sĩ đã làm nên ca khúc.
Sự thống nhất ý chí được thể hiện ở chi tiết chính tác giả trong một buổi sinh hoạt Chi bộ Đảng đã hứa với cấp trên rằng sẽ viết một nhạc phẩm về dự cảm và niềm tin đó và khi “Tiến về Hà Nội” được viết xong, đồng chí Khuất Duy Tiến, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội kiêm Trưởng ban Tuyên huấn lúc đó đã cho đăng ngay trên tờ báo của Thủ đô.
Căn cứ Khu Cháy – nơi ra đời “Tiến về Hà Nội”
Tượng đài Khu Cháy (Ứng Hòa, Hà Nội)
Khu Cháy có một cái chợ khá nổi tiếng bên sông Đáy, kéo dài mấy cây số từ chợ Đại (Kim Bảng) tới Cống Thần (Ứng Hòa). Chợ này được mô tả khá sầm uất, phong phú và nhiều khách (cả vùng tự do và vùng tề) qua lại.
Chợ này còn là nơi nghỉ ngơi, giao lưu, sinh hoạt tinh thần cho mọi tầng lớp (cố nhiên còn là nơi hoạt động của cán bộ Việt Minh và cả mật thám địch nữa) với những hiệu bán đồ sang, những quán cà phê, rượu thơ và nhạc…
Chính vì thế mà Khu Cháy thu hút rất nhiều văn nghệ sỹ kháng chiến về ở và làm việc, từ đây để lại những tác phẩm nổi tiếng gắn bó với lịch sử cách mạng.
Là một người trong số đó, nghệ nhân Đào Văn Soạn người làng Đào Xá (xã Đông Lỗ – Ứng Hòa) thú vị nhắc đến nhiều cái tên quen thuộc như các họa sĩ Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái với nhiều cuộc trưng bày tranh cổ động, tuyên truyền; nhà thơ Quang Dũng với “Đôi mắt người Sơn Tây”, đặc biệt là nhạc sĩ Văn Cao với “Tiến về Hà Nội”.
Theo nghệ nhân Đào Văn Soạn, có lẽ không khí kháng chiến cùng phong vị các phiên Chợ Đại – Cống Thần đã tạo niềm hưng phấn, lạc quan cách mạng cho những cảm xúc sáng tạo của văn nghệ sĩ ở đó.
Các tài liệu lịch sử về Khu Cháy anh hùng đều nhắc đến cuộc càn Kangaroo của Thực dân Pháp vào Khu Cháy mà trận đánh chặn đầu tiên đã diễn ra tại khu vực Chùa Viên Đình, làng Đào Xá của Đông Lỗ.
Dù không cân sức nhưng 2 tiểu đội du kích phối hợp với bộ đội địa phương, được dân làng trợ giúp đã kìm chân một cánh quân Pháp đông gấp bội cùng xe tăng, súng pháo suốt một ngày trời, đủ thời gian cho các cơ quan trong căn cứ di chuyển an toàn.
Lý giải cho chiến công này chỉ có thể là tinh thần quả cảm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, chiến trận lòng dân của những nông dân Đông Lỗ chất phác.
Sản xuất đàn tại một hộ gia đình ở thôn Đào Xá (xã Đông Lỗ, huyện Ứng Hòa). Ảnh: Minh Phú.
Tiếng đàn Đông Lỗ
Điều thú vị là thôn Đào Xá lại là nơi phát tích một nghề mới lạ, cầu kỳ, quý phái ở vùng quê thuần nông chiêm khê, mùa thối này – nghề chế tác nhạc cụ. Theo hồi ức của nhiều bậc cao niên trong làng thì người đầu tiên mang nghề làm đàn từ Hà Nội về làng là cụ Đào Xuân Lan, một thợ mộc bậc thầy.
Dù chưa qua bất kỳ một trường lớp đào tạo nào về nhạc lý, càng không biết gì những kiến thức hàn lâm về hòa âm, phối khí, cao độ, trường độ trong âm nhạc, nhưng với đôi tay tài hoa và khả năng thẩm âm đặc biệt nhờ vận dụng biểu lý âm luật ngũ hành, những nông phu xứ “thịt chó 7 món 1 nồi” Đông Lỗ đã tạo tác nên những nhạc khí tinh xảo từ truyền thống như đàn tranh, đàn nguyệt, tỳ bà, tam thập lục đến hiện đại như ghi ta, violon…
Cũng chính những nông dân Đào Xá là những người đầu tiên biết và say sưa tập hát bài ca “Tiến về Hà Nội” của Văn Cao tại nơi và khi ông viết ra nó. Một lần nữa cảm hứng nghệ thuật của nhạc sĩ lại bắt gặp những lát cắt đẹp trong quê mùa, giản dị, đối chọi mà hòa hợp đến bất ngờ, làm nên sức sống, sức sáng tạo của người Đông Lỗ.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.