TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
THƠ NỮ ĐƯƠNG ĐẠI - SỨC HẤP DẪN CỦA KHÁT VỌNG -Tiểu luận TRẦN THI TRÂM
THƠ NỮ ĐƯƠNG ĐẠI - SỨC HẤP DẪN CỦA KHÁT VỌNG -Tiểu luận TRẦN THI TRÂM
NGUỒN: Vanvn- Cập nhật ngày: 10 Tháng ba, 2025 lúc 14:20
Nhà phê bình Trần Thị Trâm – tác giả bài viết
Thiên tính nữ vẫn là một nét đặc sắc của thơ nữ đương đại
Sự khác nhau giữa thơ nữ và thơ của những nhà thơ nam biểu hiện rõ nhất ở thiên tính nữ. Đó là một thuộc tính, một giá trị đặc sắc, đóng góp loại biệt cho lịch sử văn học của các nhà thơ nữ và cũng làm cho thơ của các chị hay hơn, hấp dẫn hơn.
Quả thật, thơ nữ luôn có những nét yêu kiều riêng mà “ngòi bút đàn ông khó có thể viết ra được” (Hoài Thanh). “Thì ra cái người đàn ông thi sỹ có khác người đàn bà thi sỹ một nét nào đó thật” (Trịnh Thanh Sơn). Nên nói đến thơ nữ là phải nói đến thiên tính nữ.
Bởi ngoài tính dân tộc, tính nhân loại, mỗi tác giả còn mang vào tác phẩm giới tính của mình. Khác với cánh mày râu, cách cảm, cách nghĩ, điểm nhìn, quan niệm nghệ thuật của người phụ nữ có nhiều khác biệt dẫn đến có vô số khác biệt trong lựa chọn nội dung phản ánh, trong cách tiếp cận và lý giải vấn đề, cách xây dựng hình tượng, cách sử dụng ngôn ngữ. Thường nhìn thế giới bằng ánh sáng thông tuệ của trái tim, nên với phái đẹp: tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc gia đình luôn được coi là thiêng liêng và vô cùng quan trọng. Ngay cả nữ sĩ họ Hồ dù cá tính và ngông là thế, trong sâu thẳm vẫn nuối tiếc tuổi trẻ, vẫn khao khát tình yêu và hạnh phúc gia đình: Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí con con (Tự tình).
Với đa số phụ nữ, tình yêu là lẽ sống và cách yêu của họ cũng không giống đàn ông: Trái tim không còn yêu nữa/ Đời người sống cũng như không (Yêu, Trần Thị Nương)
Nếu đàn ông, khi yêu luôn tỉnh táo, nghiêng về thụ hưởng thì với người đàn bà lại đắm say, với nhu cầu dâng hiến và hy sinh. Trong khi cánh mày râu năm bảy lá gan thì chị em lại cả tin và chung thủy : Đã yêu yêu đến tận cùng/ Đã thương thương đến nát lòng vì nhau (Em chờ, Lê Thị Kim)
Khát khao và đắm say hơn người, những nàng thơ nhiều khi sống trong ảo giác nên dễ mỹ hóa, lý tưởng hóa tình yêu và thần tượng hóa người tình, cường độ yêu ở họ mạnh mẽ hơn và khát vọng hạnh phúc của họ cũng ráo riết hơn: Em yêu anh cuồng điên (Dệt tầm gai, Vi Thùy Linh). Ở họ thường trực phấp phỏng lo âu: Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may/ Áo em sơ ý cỏ găm đầy/ Màu yêu mỏng mảnh như màu khói/ Ai biết tình anh có đổi thay (Hoa cỏ may, Xuân Quỳnh).
Với họ, tình yêu, hạnh phúc mong manh, cô đơn là luôn đeo bám: Em ngồi với bóng trăng già/ Nuôi con với muối xát qua nỗi buồn (Xòe bàn tay bấm ngón tay, Hoàng Việt Hằng)
Cùng với trái tim kiêu hãnh, có lúc, họ dám từ bỏ tất cả, nhưng có một thứ người đàn bà làm thơ quyết bảo vệ chở che, quyết liệt, cố giữ bằng mọi giá đó là những đứa con – tác phẩm nghệ thuật tinh hoa nhất mà tạo hóa đã ban phát cho họ. Để vừa có thể hoàn thành thiên chức làm mẹ vừa thỏa mãn hành trình đi tìm cái đẹp của mình, các bà mẹ làm thơ đã phải trả giá, phải phân thân: Nuôi con bến thực nuôi mình bến mơ (Nguyễn Thị Mai)
Mỗi người đàn bà làm thơ đều là một khối mâu thuẫn lớn: bản lĩnh mà yếu đuối. Xưa nay, chẳng mấy phụ nữ làm thơ có cuộc sống êm đềm. Dường như, không ai trong số họ lại không mắc một chuỗi bi kịch. Thông minh, tài sắc, có đủ khả năng tuyệt vời làm mẹ làm vợ nhưng vì yêu hơn, đa cảm hơn, nên họ hay phải trải đau đớn hơn người. Thậm chí, như trò đùa tạo hóa, một người đàn bà có ý thức rất cao về hạnh phúc, về quyền sống lại phải chấp nhận nghịch cảnh chồng chị chồng em (Đoàn Thị Lam Luyến).
Chọn thi ca làm nơi ký thác khổ đau hạnh phúc, vịn vào những câu thơ mà đứng dậy và dĩ nhiên thi ca cũng đã chọn họ để mang thông điệp yêu thương đến với những kiếp người, nên thơ viết bằng thứ nước mắt lặn sâu vào con tim chỉ là độc quyền của đàn bà, bởi chỉ đàn bà mới có những day dứt, đớn đau đến như vậy.
Tiếp cận thế giới bằng góc nhìn nữ phái, vùng hiện thực mà chị em quan tâm có vẻ nghiêng về những điều riêng tư, nhỏ nhặt của cuộc sống thường nhật: Trái tim đàn bà trĩu nặng/ Những điều nhỏ nhặt quẩn quanh/ (Đàn bà, Phạm Thu Yến). Vì thế trong thơ của các chị đề tài đàn bà được phản ánh với tần số lớn. Những mã nghệ thuật mang thương hiệu đàn bà như: tình yêu, tình mẫu tử, hoa và biến tấu của hoa, lời ru với những cung bậc khác nhau, nỗi nhớ thương… xuất hiện dày đặc trong thơ: Từ ngày đưa mẹ ra đồng/ Qua hàng trầu vỏ, con không dám nhìn (Nguyễn Thị Mai).
Và ngôn ngữ thơ nữ thường trau chuốt, mềm mại, bóng bảy, dịu dàng, nhiều khi đeo thêm trang sức làm duyên và để diễn tả cảm nhận tinh tế trong tâm hồn nhạy cảm. Đàn ông dễ đâu viết được những vần thơ chứa đựng những hành vi dễ thương và đầy chất nhân văn: Tôi trả tiền thêm cho chị/ Ngẩn ngơ chị tưởng tôi lầm (Đàn bà, Phạm Thu Yến)
Cử chỉ đẹp mà đời như thế chỉ có thể được chiết xuất từ trái tim đàn bà với run rẩy, xao động khe khẽ của tâm hồn và nỗi đồng cảm tận cùng của thân phận. Qua các vi diệu đó, các nhà thơ nữ tạo được âm thanh đồng vọng, đã hữu hình hóa được những bí mật trong cõi thầm kín của giới đàn bà: Sao anh vội ngỏ lời/ Vào một đêm trăng khuyết/ Để bây giờ thầm tiếc/ Một vầng trăng chưa tròn (Trăng khuyết, Phi Tuyết Ba). Đó là mùi hương thầm thanh khiết cứ vương mãi bước người đi (Hương thầm, Phạn Thị Thanh Nhàn)…
Ngoài những câu thơ dịu dàng, mềm như lụa, chất lượng thơ nữ còn nằm ở những tứ thơ hàm ngậm những triết lý nhân sinh sâu sắc, ở những câu thơ đầy cá tính và trí tuệ: Xé lòng nghe tiếng em than/ Tiếng kêu nhân thế vẫn vang vọng về (Nguyễn Thị Hồng Ngát). Hay: Thánh thiện, trinh nguyên bờ thế kỷ/ Lọc hết tạp giao để trong ngần (Trần Thị Nương).
Rõ ràng, nhà thơ muốn tiến xa, cần phải có nền tảng văn hóa, phông kiến thức tốt, nhờ không ngừng học tập và rèn luyện, trải nghiệm mà có chứ không thể chỉ dựa vào năng khiếu trời cho. Trong đó những kiến thức lý luận là rất quan trọng.
Thơ nữ đương đại đang vận động theo hướng hiện đại hóa
Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo, nữ thi sĩ luôn khát khao đổi mới thi ca và đổi mới chính mình với quan niệm nghệ thuật mới mẻ. Mỗi chị đều muốn khẳng định cá tính: Đập ngày bình yên tẻ nhạt/ Bay lên như cánh chim trời/ Chỉ có một lần được sống/ Hãy cho tôi là chính tôi (Bão, Chử Thu Hằng).
Em chỉ là chính em, bất toàn như đời sống/ Em chẳng cần làm gì để hợp ý trước sau (Nhìn em bằng trái tim anh, Bình Nguyên Trang). Họ dám: Đi ngược những thói quen/ Đi ngược những quan niệm/ Kì lạ thay! Sự sống lại bắt đầu từ cái chết (Trước bức tranh cây bằng lăng mùa Xuân, Bế Kim Loan)
Những điều họ muốn và cần rất mới mẻ: Tôi cần một liều doping (liều bóng tối, liều ánh sáng), không cần nước mắt (Xin, Tuyết Nga). Thứ họ muốn rất khác trước: “Đóng gói được một trời sao rụng… Đóng gói được nỗi nhớ em run rẩy. (Hạt dẻ thứ tư, Tuyết Nga). Nhiều câu thơ lạ và hiện đại: Vũ trụ có lỗ đen bí ẩn/ Đôi mắt là lỗ đen của vũ trụ người/ Khi hôn mắt Anh, trong mắt Anh/ Em nhìn thấy sự vận động của thế giới từ hạt nảy mầm còn nằm trong ngấn nước (Đôi mắt Anh, Vi Thùy Linh). Qua khảo sát ta thấy, cuộc đổi mới thơ nữ tuy lặng lẽ nhưng bước đầu đã diễn ra trên nhiều phương diện: từ quan niệm nghệ thuật, đến nội dung, hình thức; từ ngôn ngữ, thể loại đến tư duy thơ…
Thơ của họ không còn vùng cấm kỵ, không còn thái độ rụt rè mà là thái độ trực diện, thẳng thắn. Câu hỏi Ta là ai được ráo riết đặt ra: Tự hỏi phải chăng ta đến từ tia chớp/ Lôi diện vẽ vòng đời/ Một du khách trên con tàu sẵn lộ trình, số ghế/ Chúng ta là tù nhân trong hàng kẽm gai lập thể của chính mình (Diễn sinh, Phạm Vân Anh). Với họ, viết cái gì là điều quan trọng mà điều họ trăn trở lại là: Viết như thế nào để hội nhập vào thế giới hôm nay?
Lạc giọng hót chú chim xa bay nhập nhòa/ Chiều ướt áo cánh chuồn kim trú vào chật vật/ Bời bời ký ức tháng năm mỏng mảnh móng tay vẽ hình giọt nước/ Tách cà phê ủ hương buồn xa lắc/ Mưa gày sợi ấm khăn choàng xầm xì… (Mưa ngoài ô cửa, Lữ Thị Mai).
Hiện nay có nhiều xu hướng đổi mới. Có chị theo hướng từ truyền thống đến hiện đại. Có chị đi thẳng tới lối thơ hậu hiện đại. Bên cạnh hướng tìm cách làm mới thơ lục bát, họ làm thơ văn xuôi, trường ca (Phạm Thị Phương Thảo, Phạm Vân Anh) và những thể thơ rất ngắn, cô đọng, hàm súc như thơ 2 câu (Nguyễn Thị Mai, Hạnh Mai); thơ 6 câu (thơ 1-2-3) – thể thơ phá vỡ sự đăng đối truyền thống (Đỗ Thu Yên, Y Mùi, Phạm Thị Phương Thảo, Bùi Thanh Hà, Trần Vũ Anh Thư, Lê Kim Phượng). Thơ ngắn, là hướng yêu cầu ngôn ngữ thơ tối giản và giàu tính biểu tượng, gợi nhiều suy tư, giàu nhịp điệu, từ đó mở ra những tầng ý nghĩa sâu sắc. Thơ 2 câu rất gần ca dao hiện đại, đậm phong cách hài hóm theo kiểu dân gian, trí tuệ mà rất đời: Lời tuyên như sét đánh ngang/ Thế là xong/ Một chuyến sang đò/ Chìm (Hạnh Mai).
Giọng thơ có chiều hướng thay đổi: âm hưởng buồn thương, tiếng hát than thân giảm, chất trào phúng được tăng cường. Bởi, nhiệm vụ quan trọng của thơ đương đại là truyền đến bạn đọc cảm hứng tích cực, vì cuộc sống hôm nay rất cần niềm vui và cái đẹp, đâu chỉ đến từ cái bi?
Nội dung thơ nữ hôm nay mới mẻ, dân chủ và cởi mở: Bà đi hò hẹn sáng nay/ Bế thêm thằng cháu trên tay bồng bồng/ Tóc nâu môi đỏ má hồn/ Trái tim bà cũng phập phồng nỗi yêu (Bà đi hò hẹn, Nguyễn Thị Mai). Tầm vóc nhà thơ nữ ngày một lớn hơn: Ta muốn ôm cả đất/ Ta muốn ôm cả trời/ Mà không sao ôm trọn/ Một trái tim con người (Gửi tình yêu, Đoàn Thị Lam Luyến). Và đó là cơ sở để hy vọng, ngày một nhiều nhà thơ nữ có được tư tưởng và phong cách riêng.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.