TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
BÀI THƠ TÂM SỰ NÀNG THÚY VÂN CỦA TRƯƠNG NAM HƯƠNG
BÀI THƠ TÂM SỰ NÀNG THÚY VÂN CỦA TRƯƠNG NAM HƯƠNG
NGUỒN: Baovannghe.vn -28/06/2025
TÂM SỰ NÀNG THÚY VÂN
TRƯƠNG NAM HƯƠNG
Tranh Lê Trí Dũng
Nghĩ thương lời chị dặn dò
Mười lăm năm đắm con đò xuân xanh
Chị yêu lệ chảy đã đành
Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim
Ơ kìa sao chị ngồi im
Máu còn biết chảy về tim để hồng
Lấy người yêu chị làm chồng
Đời em thể thắt một vòng oan khiên
Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên
Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn
Mấp mô số phận vuông tròn
Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu
Là em nghĩ vậy thôi Kiều
Sánh sao đời chị bao điều bão giông
Con đò đời chị về không
Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường
Chị nhiều hờn giận yêu thương
Vầng trăng còn lấm mùi hương hẹn hò
Em chưa được thế bao giờ
Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim
Em thành vợ của chàng Kim
Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao
Dấu đầy đêm nỗi khát khao
Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu./.
LỜI BÌNH CỦA ĐẶNG VĂN TOÀN
Cái cô Thúy Vân ngoan ngoãn, hiền lành và phúc hậu. Ai cũng tưởng đã yên bề gia thất từ lâu rồi. Ấy thế mà bỗng nhiên người ta thấy cô trở về, lại còn xưng xưng giãi bày tâm sự nữa. Và những lời giãi bày tâm sự của cô đã làm động lòng không biết bao nhiêu người trong thiên hạ.
Màn độc thoại với người chị Thúy Kiều diễn ra trong một đêm tâm tưởng, có lẽ cũng giông giống như cái đêm trao duyên Cậy em em có chịu nhời ngày trước.
Cô vẫn thật thà như đếm ấy thôi: Chị yêu lệ chảy đã đành/ Chớ em nước mắt đâu dành chàng Kim. Và nhẫn nhịn cam tâm: Lấy người yêu chị làm chồng/ Đời em thể thắt một vòng oan khiên.
Là chỗ chị em gái với nhau, cho nên hơn ai hết, cô cũng biết lắm, thương lắm về nỗi khổ tình, khổ đời mà người chị phải trải qua, chịu đựng: Là em nghĩ vậy thôi Kiều/ Sánh sao đời chị bao điều bão giông / Con đò đời chị về không/ Chở theo tiếng khóc đáy sông Tiền Đường. Và đau đớn nhất, xót xa nhất cái nghịch cảnh: Tiết trinh thương chị đánh lừa trái tim.
Cũng trong lần tâm sự này, cô bộc lộ hết mình hơn với bao nhiêu nỗi niềm ẩn ức, với ngổn ngang những đòi hỏi, khát vọng. Trước kia là duyên, là phận, là tình chị em, là nghĩa sinh thành. Còn giờ đây, (mặc dù là chuyện đã qua rồi) lại là con tim thổn thức, là hoài vọng khắc khoải yêu đương: Sụt sùi ướt cỏ Đạm Tiên/ Chị thương kẻ khuất đừng quên người còn / Mấp mô số phận vuông tròn/ Đất không thể nhốt linh hồn đòi yêu.
Mãnh liệt quá. Nàng Thúy Vân xưa kia chỉ biết nghe lời, yên phận theo nền nếp gia phong thói nhà... Sau hai trăm năm nén nhịn, nàng Thúy Vân của thời nay bỗng bừng tỉnh lòng yêu, bản năng trỗi dậy, phản ứng bật lên tiếng kêu thương thiết: Dấu đầy đêmnỗi khát khao/ Kiều ơi, em đợi kiếp nào để yêu.
Tiếng kêu đau đớn như đứt ruột, xé lòng.
Đối với Thúy Vân, nó là muộn mằn, tuyệt vọng. Mặc dù vậy, đối với cõi người, với cuộc đời thì nó là tiếng kêu, là câu hỏi thực tế, luôn luôn cấp thiết, thường trực. Với diễn biến tâm lý mới mẻ này, bài thơ là sự nối dài và phát triển tính cách nhân vật theo hướng phức tạp. Mà điều đó lại hoàn toàn hợp lý, thỏa đáng.
Cái xã hội khuôn phép, lạc hậu chỉ tạo ra vẻ bình lặng bên ngoài. Bên trong nó đầy rẫy những nghịch lý, bi kịch.
Đã đến lúc cần phải giật tung và hạ tấm màn che đậy giả dối ấy xuống. Con người đã ý thức được tự do và bản năng. Hình ảnh tội nghiệp Ngồi ru giọt máu tượng hình chị trao và tiếng kêu thất thanh, tuyệt vọng trong đêm của nàng Thúy Vân chính là đòi hỏi giải phóng cho bản năng người, cho một tự do hạnh phúc đích thực, vốn có để mỗi người được sống thật, sống hồn nhiên, đầy đủ với riêng mình, chính mình.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.