Nhà phê bình Nguyễn Hoàng Đức đưa ra kiến giải: “Văn thơ là con đường chủ đạo huyết mạch của một nền văn hóa, tôi rất hiểu cũng như rất thận trọng khi đưa ra đánh giá, bởi vì đánh giá là bình xét những cây bút, những tác giả, những con người tham gia vào cuộc phiêu lưu tìm mảnh đất sáng tạo, vì thế không cho phép ai đó được phiên phiến, qua loa hoặc ngạo mạn đưa ra đánh giá. Vậy thì một lần nữa chúng ta lại phải xem xét lại đánh giá của Hội Nhà văn, nói chung: Văn học Việt Nam chưa có tác phẩm xứng đáng ngang tầm thời đại, mới chỉ có tác phẩm bé và vừa. Về sáng tạo thiên bẩm, đã nhiều lần tôi tranh luận và đưa ra ý kiến khó mà phản bác rằng: thiên bẩm trong sáng tạo ở Việt Nam khó có ai vỗ ngực được nhiều hơn nhà thơ Trần Đăng Khoa. Đó là nhà thơ số 1 lúc trẻ con. Nhưng khi lớn lên, Trần Đăng Khoa đứng số mấy? Có trưởng thành? Có thành thi hào thi bá gì không?”
Ở phố Lãn Ông, Hà Nội trước đây có ba người hiền nổi tiếng về văn chương: nhà thơ Lê Đạt, nhà văn Trần Chiến và nhà thơ Vũ Đình Văn. Họ đều ở nhà bên dãy số lẻ. Nhà thơ trẻ tài hoa Vũ Đình Văn đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Còn “Trưởng lão” thơ hai-câu Lê Đạt cũng đã qua đời năm 2008. Giờ chỉ còn lại Trần Chiến, người từng 2 lần đoạt giải thưởng uy tín của Hội Nhà văn Hà Nội.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân khẳng định nguyên nhân xuất hiện bài viết này: “Tôi đến dự Hội thảo về Nguyễn Huy Tưởng sáng 24/9/2010 là do nhận lời mời của con trai nhà văn. Từ vài tháng trước trở lại đây, Nguyễn Huy Thắng đã vài ba lần gọi điện thoại cho tôi, đề nghị tôi viết tham luận. Tôi đang bận nên chỉ nhận lời phát biểu. Thắng hỏi kỹ tôi sẽ nói đề tài gì, tôi nói đề tài “Nguyễn Huy Tưởng với trách nhiệm xã hội của nhà văn”. Sáng 24/9 tôi tới hội trường số 9 Nguyễn Đình Chiểu dự hội thảo, chỉ mong được nói sớm rồi trở ra Thư viện với các việc đang bỏ dở. Xem tờ chương trình thấy mình được bố trí nói thứ 8, thấy hơi muộn, nhưng dằn lòng ngồi lại. Chị Phạm Thị Thành ngồi cạnh bảo anh sẽ được nói trước tôi; tôi chìa cho chị xem mảnh giấy nhỏ bằng ba ngón tay ghi 2 gạch đầu dòng sẽ nói, bảo tôi sẽ nói ngắn. Lần lượt, tới Phạm Xuân Nguyên, rồi Vũ Quần Phương… vẫn trong thứ tự. Gần tới mình rồi. Tôi nhấp ngụm nước, chuẩn bị đứng lên. Vậy mà không, người điều khiển chương trình mời người khác, rồi người khác nữa, người khác nữa… Rồi gia đình nhà văn nói lời cảm ơn. Rồi nhà xuất bản Kim Đồng đọc tổng kết. Rồi hội thảo giải tán. Không ai trong ban tổ chức hội thảo hay gia đình nhà văn có một lời nào với tôi. Tôi ra về trong tâm trạng hối hận vì đã tới cái hội trường số 9 Nguyễn Đình Chiểu này. Người có tham luận viết sẵn có thể nộp ban tổ chức, còn tôi, những lời định nói vẫn còn trong đầu, tôi phải làm gì? Chỉ có cách viết nó ra rồi mới có thể đi làm việc khác. Tôi đã viết ra, và bây giờ tôi gửi cho, trước tiên, trang web Hội Nhà Văn, xin đề nghị đăng nguyên văn, kể cả đoạn thuyết minh này, cho biết vì sao đây lại là Ý KIẾN CHƯA PHÁT BIỂU TẠI HỘI THẢO VỀ NGUYỄN HUY TƯỞNG. Tôi cũng sẽ gửi đến một vài trang blog khác, luôn thể để bạn đọc kiểm tra xem những ai thích biên tập cắt xén của nhau và biên tập cắt xén như thế nào. Còn về nội dung, sẽ mỗi người một kiểu nhận xét, ấy là đương nhiên”
Để đáp ứng trúng nhịp đề tài mới, nóng kia, nhà thơ viết như thế nào? Người làm thơ hôm nay còn có quyền cho phép mình tái sử dụng thủ pháp nhàm cũ với nhịp thơ rù rì như đã từng không? Hoặc, những hạn từ mòn sáo đèm đẹp nhằm vuốt ve mặc cảm còn cần thiết có mặt trong thơ hôm nay nữa không? Cuộc sống thay đổi buộc nhà thơ thay đổi lối nhìn và thay đổi cả lối viết. Ở khía cạnh này nữa, thơ của thi sĩ Kinh ở Tây Nguyên và thơ của các cây bút Chăm có cuộc chuyển đổi mạnh mẽ.
Trò chơi có lẽ luôn tồn tại cùng chúng ta, và những lý thuyết đầu tiên về chúng ở Phương Tây phải lần lại từ thời Hi Lạp cổ đại. Chẳng hạn, Heraclitus, Aristotle và Plato đã xem trò chơi như những cuộc so tài trí, thể lực, sức mạnh hợp lệ. Ở thời Hi Lạp cổ đại, trò chơi là một phần trong đời sống giải trí của cộng đồng, không phải chỉ trong hình thức những cuộc thi đấu thể thao mà còn trong các nghi thức tôn giáo và liên quan tới các trình diễn sân khấu, cũng như các tranh luận giữa những người có học và các nhà tu từ học.
NTT: Từ hôm có tin Phó TGĐ đài THVN Trần Đăng Tuấn tuyên bố rút khỏi nơi mà anh đã mấy chục năm gắn bó gây dựng… tôi rất muốn ngồi chơi với anh xem sự thể thế nào. Thật may, vợ chồng anh đã ghé nhà hàng Hải Đăng (105A2 – phố Nguyễn Khánh Toàn) uống rượu cùng Xuân Ba, Hồng Thanh Quang, Hải Đăng và tôi. Ngọc Trâm như trẻ ra, còn Tuấn vẫn thế, vẫn cặp kính trong nhìn đời thật trong. Tôi chưa hỏi chuyện thì đã biết là anh sẽ không thay đổi quyết định của mình. Nhưng có điều làm tôi bất ngờ khi Xuân Ba đọc một bài thơ của Tuấn có những câu rất nén mình: ”Đời nén Có thành Không/Đất nén Sông thành Bể/Rừng nén Hương thành Quế/Nhọc nhằn, tôi nén tôi!”. Thì ra Tuấn vừa làm truyền hình vừa lặng lẽ làm thơ. Và anh đã đọc mấy bài thơ mới. Thơ của anh là những trăn trở về đời, về người, và luôn đau đáu về điều Tốt. Tôi đề nghị anh cho mấy bài thơ để bạn bè cùng chia sẻ, và Tuấn mở con di động bắn thơ sang máy tôi. Anh đã làm thơ không phải trên máy tính hay trong sổ tay mà làm thơ trên máy điện thoại…
Ngoảnh lại thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, nếu chọn một hiện tượng thơ Việt, có lẽ phải nhắc đến Lãng Thanh. Chàng trai tên thật Lê Quốc Tuấn sinh năm 1977 bất đắc dĩ ngừng cuộc chơi thi ca trên cõi nhân gian ở tuổi 25 bởi một cái chết tức tưởi và bi thương. Tên nghiện xông vào nhà cướp của giết người vào chiều ngày 20-7-2002 không biết rằng nhát dao oan nghiệt từ tay hắn đã kết liễu một tài thơ đang độ chín muồi. Bây giờ nấm mộ nhỏ của Lãng Thanh đã xanh cỏ trên vạt đồi Việt Trì, còn những câu thơ anh để lại vẫn chùng chình len vào tâm hồn độc giả hôm nay.
Thiên Sơn là bút danh của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, sinh năm 1972 tại Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An. Anh là cháu ruột của nhà văn Sơn Tùng. Thiên Sơn tốt nghiệp khoa Văn đại học Tổng hợp Hà Nội, hiện công tác tại Tạp chí Điện ảnh. Anh làm thơ từ thời còn đi học. Đến nay, Thiên Sơn đã có một gia tài gồm 4 tiểu thuyết, 2 tập truyện ngắn, 2 tập thơ và hằng trăm bài báo…
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.