Bài viết này chỉ nhấn mạnh một số biểu hiện tính hiện đại trên phương diện ngôn từ, một trong những vấn đề quan trọng đối với các nhà thơ trong phong trào thơ mới 1932-1945.
Bạn đọc không chỉ biết đến Trương Đăng Dung, “một trong những nhà khoa học uy tín nhất Việt Nam..." (TS. Mai Bá Ấn) mà còn biết đến một Trương Đăng Dung, tác giả của những vần thơ với những cách tân, hiện đại và đặc biệt ấn tượng cả về nội dung lẫn hình thức. Các bài thơ của người xuất hiện và liên tục gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc. Nghiên cứu về thơ Trương Đăng Dung, Mai Bá Ấn đánh giá "Thơ Trương Đăng Dung táo bạo, hiện đại đúng như trường phái mà nhà nghiên cứu này thường thể hiện... thơ thầy Dung sắc cạnh, táo bạo, hiện đại hơn”; Hoàng Thụy Anh viết “Tiếp cận một bài thơ, người đọc cần nhận diện các lớp sóng khuất lấp. Rồi thâm nhập, bóc tách, giải mã chúng để dần chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật. Đến với thơ Trương Đăng Dung, người đọc phải tuân theo quy trình đó. Thơ ông chứa một thế giới phi lý, nghiệt ngã, bất an. Một thế giới ngổn ngang, đầy những giới hạn. Một thế giới trống rỗng, xác xơ… Thế giới ấy được giải phẫu bằng tư duy của một nhà thơ mang tâm thức hậu hiện đại. Kiến tạo hình ảnh lạ, ít có sự tương đồng là đặc điểm chung của các nhà thơ theo tinh thần hậu hiện đại.
Trong thơ Du Tử Lê, cái mới nhất, theo tôi, là những từ ngữ, hình ảnh mang đầy tính chất sáng tạo và riêng tư của anh. Ðây là phần khiến cho chúng ta có cảm tưởng thích thú nhất, nhưng đồng thời cũng là điều khiến chúng ta “vỡ đầu” nhất, và đôi khi có thể ngăn cản thơ Du Tử Lê tới với một số người yêu thơ, nhất là những người trẻ yêu thơ trong giới trẻ hiện nay ở hải ngoại.
Sau tám năm từ độ ra đời, Thơ Mới (1932-1945) đang cuồn cuộn chảy như một dòng sông lắm ghềnh nhiều thác, lúc ẩn, lúc hiện, chợt bùng lên rồi lắng lại sững sờ, như ngẩn ngơ, như luyến tiếc cội nguồn? Kể cũng lạ, khi dòng Thơ Mới cuộn chảy, gầm reo tới cao trào với Xuân Diệu thì cũng là lúc nó chợt phình ra giống một cái hồ cho mưa nguồn chớp bể trong hồn sông nước được nghỉ ngơi, trầm lắng, ưu tư mà hoài cổ. Khúc sông giống hồ nước của dòng Thơ Mới ấy chính là HuyCận với tập “LửaThiêng ” gồm 50 bài thơ ra mắt năm 1940.
Năm 1995, tôi ở căn phòng gần hai chục mét vuông gầm cầu thang tầng trệt chung cư 190 Nam kì khởi nghĩa, quận 3, Sài Gòn, nơi mà cả ngày không có một chút ánh sáng trời. Nghe anh bạn cùng chung cư mách rằng nhà thơ Diệp Minh Tuyền đang rao bán căn phòng lầu 6, tôi mua luôn. May quá, vì căn phòng lầu 6 của tôi có hai láng giềng rất tin cậy và nổi tiếng: Căn bên trái cầu thang là phòng vợ chồng Nhà thơ Lê Giang- Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ, rẽ phải là phòng Nhà thơ Hoài Anh, rồi đến phòng tôi.
Một nhà lý luận phê bình văn học xuất sắc, không chỉ phát hiện khẳng định sớm những tác phẩm văn học có giá trị mà còn thiết thực gợi mở, đánh thức, khuyến khích cảm hứng sáng tạo, dũng khí tìm tòi cho nhiều thế hệ cầm bút Việt Nam.
Nếu gặp gỡ mà tôi có được với bà quả phụ Huy Cận, là một gặp gỡ “Ngậm Ngùi”, vì sự ra đi vĩnh viễn của tác giả “Lửa Thiêng;” thì cuộc gặp gỡ tôi có được với tác giả những ca khúc đã trở thành bất tử, như “Mơ Hoa,” như “Ngày Về,” “Quê Hương, “Khúc Hát Thương Binh”… lại là một gặp gỡ đầm ấm, hạnh phúc trong căn nhà nằm sâu một con ngõ phố cổ Hà Nội.
Tác phẩm được trao giải có khi chệch ra khỏi thị hiếu đại chúng nhưng phải đảm bảo được chất lượng thẩm định, thể hiện được một cách đọc có lý từ phía người thẩm định, nói chung là cần tôn vinh những tác phẩm, những giá trị văn học chứ không phải trao giải thưởng theo lí lịch nhân thân, chức vụ của người sáng tác;
Thực ra, cân một tác phẩm văn chương là cân ở tài năng chứ không phải ở đề tài. Thì bây giờ các chiến sĩ cộng sản có còn ai bị tù đày đâu, chẳng nhẽ vì thế mà giá trị của tác phẩm Nhật ký trong tù và Viết dưới giá treo cổ lại giảm đi?
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.