TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
LẮNG NGHE LỤC BÁT TỰ TÌNH - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
LẮNG NGHE LỤC BÁT TỰ TÌNH - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
NGUỒN: (Báo Quảng Ngãi)-Thứ Bảy, 04/10/2025-15:49
Sinh năm 1960 ở Quy Thiện - một vùng quê cát nghèo ở xã Phổ Khánh, nay là xã Khánh Cường, chàng thiếu niên Trương Binh (bút danh Hoàng Diễm) tham gia hoạt động cách mạng từ năm 14 tuổi, được đưa ra Bắc học tập. Sau 1975, anh trở về quê. Suốt một đời gắn bó với ngành an ninh, đối mặt với muôn mặt cuộc đời, cảm nhận tình đời bằng nghiệp vụ chuyên ngành của một tiến sĩ luật học cùng một nội lực văn hóa vững vàng, một niềm đam mê văn chương thường trực, anh cứ tích chứa vào lòng để khi thư nhàn, chuyển hóa thành thơ.
Có lẽ do rời quê từ thuở bé, quê hương hiện lên trong thơ Hoàng Diễm một cách thật thà, tự nhiên. Cứ như kỷ niệm ùa về, vỗ vào lòng, anh gom lại và ghép thành những câu lục bát chuẩn mực về vần điệu:
“Đầu làng có bãi đất hoang
Cùng chơi trò đánh ô quan quên về”
(Về miền ký ức).
Chính vì vậy, bên cạnh những câu thơ bình dị, đôi lúc xuất hiện những câu thơ ngộ nghĩnh đến dễ thương:
“Cỏ may khâu bước chân quê
Gỡ sao được hết bùa mê... mắc cười”
(Hương quê).
Ngồi tự tình để quần áo vướng cỏ may! Mà cũng không hiểu là “cỏ may” hay “bùa mê” mà gỡ hoài không hết. Quê hương luôn luôn gắn chặt với gia đình như một lẽ tất nhiên của suy tư người Việt. Đó là ơn nghĩa vô biên của đấng sinh thành:
“Sinh thành ơn nghĩa vô biên
Cõng sao được hết những miền yêu thương”
(Cánh diều đời con).
Là tình cảm vợ chồng thủy chung, keo sơn gắn bó, đắng cay san sớt, ngọt bùi sẻ chia:
“Nụ cười chở nắng ngược xuôi
Mang theo hương vị ngọt bùi có nhau”
(Ngày đá đơm hoa).
Đọc một loạt bài lục bát viết về vợ, ta có cảm giác Hoàng Diễm luôn giữ được chất men say của tình yêu, cho dù đó là tình yêu đã hóa sinh nên nghĩa vợ chồng:
Cùng ta người nhé ly này
Giao bôi trọn nghĩa một ngày trăm năm
(Men tình).
Đúng là:
“Nhà vui thêm tiếng trẻ thơ
Tình thâm như sóng vỗ bờ sông quê”
(Lời ru cháu ngoại).
Tập thơ "Tự tình lục bát" của tác giả Hoàng Diễm.
Trải đời, thấu hiểu về đời trong muôn mối quan hệ của cuộc sống nhân sinh, thơ thế sự của Hoàng Diễm đẫm chất suy ngẫm, triết lý. Đã là người, không ai tránh khỏi những lỗi lầm, sân si, nên đôi khi cũng mượn men sầu để tìm quên:
“Ừ thì say... cứ say đi!
Say cho quên hết sân si lỗi lầm”
(Hồn say).
Say không phải để say, để tiếp tục kéo dài những nỗi đau buồn trần thế, mà say là để tự mình ngộ ra và vươn tới cõi an nhiên:
“Sinh ra trong cõi ta bà
Hãy say một chén để mà an nhiên”
(Uống rượu).
Hoàng Diễm cũng để lại được những câu thơ đẹp khi đến những vùng đất khắp nơi trên cả nước. Hồ Tây bao la, mờ sương khói trong tiết xuân sang cứ như cái mờ ảo của một tình yêu bàng bạc, không thật rõ hình hài:
“Hồ Tây bàng bạc thương yêu
Tiết xuân như nói bao điều mộng mơ”
(Tự tình Hà Nội).
Nhưng khi về với miền Trung xứ Huế, thơ anh lại đột nhiên vững tin hơn, cứ như núi Ngự sông Hương đã sẵn chờ một người cũ:
“Sông Hương núi Ngự chờ mong
Câu thương câu đợi tiếng lòng thương yêu”
(Hương giang ngày về).
Rồi khi xuôi phương Nam, khói hương trên những nấm mộ xanh ở Nghĩa trang Hàng Dương (Côn Đảo) bay lên không trung, nối quá khứ với hiện tại, nối người sống với người đã khuất, nối linh thiêng giữa khói và mây, giữa đất và trời, tạo nên một không gian mênh mông của niềm vọng tưởng:
“Hàng Dương những nấm mộ xanh
Khói hương lan tỏa mây lành linh thiêng”
(Vọng lời Côn Đảo).
Cho nên dù cuộc thế có thế nào, buồn vui, được mất, xương máu, hi sinh... thì cuộc đời này - nơi ta đã đến và sẽ ra đi, những vùng đất - nơi ta đã đi qua, dù chỉ là “cõi tạm”, vẫn hãy cứ “cho nhau” tất cả những yêu thương khi còn có thể:
“Trần gian cõi tạm thôi mà!
Hãy yêu khi có thể là cho nhau”
(Tâm tĩnh tại tâm).
Với một tâm hồn chân thành và nhạy cảm, đề tài tình yêu đôi lứa chiếm một vị trí khá quan trọng trong thơ của Hoàng Diễm, nhất là những cuộc tình dang dở:
“Còn đâu nghĩa nặng tình sâu
Lặng trôi con nước đục ngầu cạn vơi”
(Bến vắng).
Đến cả “giọt tình” cũng là những giọt tình buồn, bởi những lời mật ngọt tình yêu ngày xưa giờ đã rêu xanh mờ phủ:
“Ta nghe trong tiếng giãi bày
Là lời vàng đá đã say bao lần”
(Giọt tình).
Và “giọt tình” đã biến thành những “giọt sầu” rơi rớt suốt một đời người. Giọt vương, giọt rơi từ “nơi bắt đầu” cho đến tận bây giờ và mãi mãi về sau:
“Giọt sầu vương giọt sầu rơi
Xin người ta trả về nơi bắt đầu
Để giờ và mãi về sau
Trong ta vơi một nỗi đau phận đời”
(Giọt sầu).
Đau đến mức tưởng chừng không chịu nổi, Hoàng Diễm đã quắt quay đánh rớt nhịp vần, bẻ ngang tiết tấu êm đềm “sáu - tám” để diễn tả cho hết cái phũ phàng của cuộc tình bị bẻ gãy:
“Ai người
bẻ gãy vần thơ
để thương
để nhớ
để chờ đợi ai”
(Xốn xang lòng).
Tình đã “qua cầu gió bay” mất áo, câu thơ cũng đành lỗi nhịp, thay vần. Xin đành gom góp những mảnh tình đau, xin trả cho người cùng những câu thơ lỗi nhịp:
“Bên cầu áo lỡ gió bay
Câu thơ lỗi nhịp vần thay đổi vần”
(Trách sao)...
Xin được giới thiệu tập thơ “Tự tình lục bát” của Hoàng Diễm cùng bạn đọc.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.