• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Diễn đàn lý luận
 
'LỜI RAO' CỦA ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN - EM CÀNG RAO TUYẾT CÀNG RƠI

'LỜI RAO' CỦA ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN - EM CÀNG RAO TUYẾT CÀNG RƠI



NGUỒN: Vanvn– Cập nhật ngày: 6 Tháng sáu, 2025 lúc 19:47

 

Nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến

 

Bên quán nhỏ ven sông Hồng, tôi gặp nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến. Chị đọc bài thơ ‘’Lời rao’’ cho tôi nghe.

Năm ấy, ở Đức, tôi cũng nghe dân giang hồ nói, Đoàn Thị Lam Luyến đang ở Leipzig sắp tan vào đội quân bán thuốc lá. Bán thuốc lá, bán xôi, bán bánh rán, bán quần áo trên ga, chợ ga, chợ trời, bấy giờ ở Đức, hòng kiếm sống nhan nhản các Em tôi. Nhan nhản những cô gái bỏ xứ ra đi hòng kiếm D. Mac mang về quê hương.

Chúng tôi cùng cám cảnh như vậy. Khi người Việt Nam ở lại sau bức tường Berlin sụp đổ, từ trăm ngả về ga sát sứ quán Việt Nam, trụ sở cũ, đón tàu từ Ba Lan, từ Tiệp đổ về Đức xả hàng. Tuyết bay mù mịt, trên sân ga, đêm chợt vẳng lên tiếng rao khô: Xôi đê, xôi đê… tiếng rao gợi gọi về quê hương, ở những sân ga mới sau Ga Hàng Cỏ, Hà Nội.

Sớm ấy, tôi mua gói xôi từ tay em gái Việt, mùi xôi thơm, bùi, béo toả ra với mùi vừng, lạc quyến rũ, làm nên chút hơi ấm trên bàn tay tôi sớm đông tuyết trắng. Cũng các em gái ấy, tôi nhớ ra, ở các khu chợ Đức, các em bán trăm thứ cầm trên tay cho xứ người ta với lời rao: Xin mời (bít-thơ-suyên). Lời rao lạnh, khô thấm tận cùng thời gian xuyên về sáng. Trời hừng lên dần, tuyết tan nhão, đường ga có chỗ trơn nhãy. Nhìn vào khúc quanh tiếng rao vẫn vóng lên: Ơ Xôi đê. Tiếng rao bấy giờ chẳng thể còn khô, ướt nhoét trào ngược lên nơi tôi đứng hút thuốc.

Đoàn Thị Lam Luyến đã ra đi như vậy, đã chứng kiến như vậy, khi nàng trốn chạy sự thật quê nhà, cũng vì miếng cơm manh áo thấm tháp, cô trở thành nhân chứng và nhìn thấu nỗi niềm: Một “Tiếng Rao’’ của quê nhà ở sứ xở người ta.

Cái thiên đường mơ ước ấy mở bằng khổ đầu:

Trời dành riêng cho xứ này

mỗi năm tuyết một vụ bay trắng trời

Người no thấy tuyết nhoẻn cười

sang mùa xuân mới cây chồi lại xanh…

Trời ơi cái đặc thù khí hậu dành riêng cho trời Tây. Ôn đới. Người âm ấm túi rồi, thấy tuyết rơi là mừng, vì vụ bán được hàng đông sang Đông rét quầy hàng sẽ bán nhiều hơn. Còn cô gái bơ vơ kia vẫn hy vọng sự chuyển vận: Qua cái Đông sang lại đến mùa xuân, cây mới ra lộc xanh, cho em tôi hy vọng mùa giá tuyết qua đi.

Nhân vật cô gái Việt đói. Cô đói tiền, đói rách… trong sự cấm vận của quê hương, mà lưu lạc đến xứ này lầm than kiếm sống.

Nhân vật của chúng ta không hề quen với xứ tuyết rơi, cho thân em ngập giá, bởi cái nơi ấy, là chỗ em có thể kiếm tiền, mặc thân xác dập vùi, dầm trong tuyết trắng cố vượt qua mùa Đông, mùa của người ta.

Lời rao em buông ở sáng ấy, trên sân ga cho đồng loại em ấy, ở các chợ chiều, chợ chiều góc phố khác, cho người Đức mua thêm quần áo, băng bổi, khăn khố, trên các con phố cũng đang ngập Đông. Tuyết sắp tan, băng sẽ chảy là trời thêm lạnh lắm.

Hãy tưởng tượng, chân các em tôi đang đạp trên băng giá, lạnh cứng người mà lời rao hàng hoa cứ chập chờn bay. “Nước thì không mất”, nhưng bao cô gái bỏ xứ ra đi vì trăm ngàn lí do, nghĩ mà cay đắng, chua sót, nhận ra một hiện thức khắc nghiệt thân phận mình, thân phận người, thân phận của kiếp đời: “Nước không mất mà nhà tan”. Em ra đi, mãi trôi trong sự lạc xứ người ta, cho khát khao hạnh phúc, em muốn xây hạnh phúc bằng tiền. Nhưng hạnh phúc xa vời ấy, đâu thể mua được bằng tiền, thi sĩ đã hoá thân vào nhân vật, chua xót và cay đắng nhận biết: “càng mơ hạnh phúc thì càng xa xôi”.

Con đường trăm ngàn lối về trắc trở vì bao nguyên do, không thể đơn giản quay đầu là bờ.

Thật buồn thân phận người em gái Việt. Khổ thơ cuối cùng vẽ ra một hiện thực: Em càng rao – tuyết càng rơi, em càng rao, quanh em càng lạnh, để xác thân em vẫn chập chờn mờ đi, ngập chìm trong tuyết trắng bao la xứ người. Trong cơn tuyết trắng sầm sập đổ xuống ấy mà sao em như vẫn mơ? Cái sở cầu của em ơi là mãi mãi.

Cô gái của Đoàn Thị lam Luyến mơ ước quay lại quê nhà tìm lại hạnh phúc gia đình, xứ sở, sự đoàn tụ sau thân phận ly quê sẽ chẳng còn ly xa:

Bao giờ cho hết chia xa

cho em về với quê nhà của em?

Đó cũng là nhát cắt cuối cùng mơ hồ đến cảm thấy như tuyệt vọng của nhiều thân phận, của nhiều em gái quê hương và cũng của sự xa xót, chua xót trên, trong một ‘’Lời Rao’’.

Đây là một bài thơ hay, lục bát quen thuộc, lời trần tình thật và dung dị, phơi bầy cả một câu chuyện của những câu chuyện bi thương rướm máu, mà thi sĩ nhận ra trên con đường li quê đau khổ, cũng là của chính mình.

Nhà văn Nguyễn Văn Thọ – tác giả bài viết

Không có lời bình nữa cho bài thơ này. Sự thật lã chã rơi xuống bên những câu thơ đau đớn chảy máu, ngay khi tôi trở lại quê hương ngồi với thi sĩ Đoàn Thị Lam Luyến, vào một chiều mùa hạ khi gió dưới sông vừa lên, thổi mát, chia sẻ cho một sự thấu cảm bất ngờ cùng nhau gặp lại.

Cảm ơn Đoàn Thị Lam Luyến cho tôi nghe ‘’Lời rao’’ nước mắt

NGUYỄN VĂN THỌ

__________________________

LỜI RAO

 

Trời dành riêng cho xứ này

mỗi năm tuyết một vụ bay trắng trời

Người no thấy tuyết nhoẻn cười

sang mùa xuân mới cây chồi lại xanh

Chẳng như đông giá xứ mình

lấy gì mặc, lấy gì ăn, hả trời?

Không hề quen với tuyết rơi

em đem thân, đến xứ người, mùa đông

Lời rao em thật não nùng

“bít-thơ-suyên* – thấm tận cùng thời gian

Nước không mất mà nhà tan

càng mơ hạnh phúc thì càng xa xôi

Em càng rao, tuyết càng rơi

và em trắng tuyết dưới trời người ta

bao giờ cho hết chia xa

cho em về với quê nhà của em?

 

CHLB Đức, 1993.

ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN



Tin tức khác

· THẦY GIÁO NGUYỄN BỈNH KHIÊM VÀ BA CÂU NÓI XOAY VẦN SỬ VIỆT
· CHUYẾN BAY 'HỤT' TỚI VIỆT NAM ĐÃ GIÚP TÁC PHẨM 'HOÀNG TỬ BÉ' RA ĐỜI
· VUA MINH MẠNG TRÁCH, VUA THIỆU TRỊ PHẪN NỘ QUAN CHẬM CỨU DÂN VÙNG LŨ
· THIÊN TÍNH NỮ VÀ CÁ TÍNH SÁNG TẠO TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG NHÌN TỪ NGHỆ THUẬT DỤNG ĐIỂN
· ĐINH THỊ THU VÂN - MỘT CÂY BÚT TRƯỞNG THÀNH TỪ SAU CHIẾN TRANH KẾT THÚC
· 'LÀNG' HAY 'THÔN' - PHÁT HUY MỘT KHÁI NIỆM VĂN HÓA
· PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN CỦA DANH NHÂN VĂN HÓA LÊ QUÝ ĐÔN TRONG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI
· CUỘC 'HÀNH QUÂN' CUỐI CÙNG CỦA ĐẠI TÁ TÔN NỮ NGỌC TOẢN
· ĐÓ KỴ TÀI NĂNG CỦA TRẠNG NGUYÊN ĐÀO SƯ TÍCH, HOÀNG ĐẾ NHÀ MINH VIẾT 4 PHONG THƯ, NỘI DUNG LÀ GÌ?
· CHUYỆN TÌM MỘ NHÀ VĂN DƯƠNG THỊ XUÂN QUÝ
· KHI NHÀ VĂN NHẤT LINH BÌNH THƠ ANH THƠ
· TRẦM HƯƠNG CỦA GÓA PHỤ - Tiểu luận VƯƠNG TRỌNG
· NHỮNG 'HUYỀN THOẠI' TRONG CUỘC ĐỜI NHÀ THƠ HUY CẬN
· KHOA CỬ VÀ CÁCH TUYỂN CHỌN NHÂN TÀI PHỤC VỤ QUỐC GIA THỜI XƯA
· MAI BÁ ẤN - NGÂN DÀI ĐAN XEN 'HÁT & KHÓC'
· NHÀ VĂN PHÁP YVELINE FÉRAY VÀ BỘ TIỂU THUYẾT ĐỒ SỘ VỀ NGUYỄN TRÃI
· PHẠM CÔNG THIỆN VÀ Ý THỨC MỚI
· NGƯỜI ĐÀN BÀ MỘNG DU TRONG THƠ NGUYỄN THỊ HẰNG
· HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG - CHÚ DẾ RONG CHƠI
· 'THÊM XƯA' - CHỐN HỒNG THIÊNG CỦA THƠ LỤC BÁT NGUYỄN NHO KHIÊM

Tin tức mới
♦ CHÙM THƠ MÙA BÃO LỤT CỦA NGÔ MẬU TÌNH (08/11/2025)
♦ THẦY GIÁO NGUYỄN BỈNH KHIÊM VÀ BA CÂU NÓI XOAY VẦN SỬ VIỆT (08/11/2025)
♦ CHUYẾN BAY 'HỤT' TỚI VIỆT NAM ĐÃ GIÚP TÁC PHẨM 'HOÀNG TỬ BÉ' RA ĐỜI (08/11/2025)
♦ VUA MINH MẠNG TRÁCH, VUA THIỆU TRỊ PHẪN NỘ QUAN CHẬM CỨU DÂN VÙNG LŨ (08/11/2025)
♦ THIÊN TÍNH NỮ VÀ CÁ TÍNH SÁNG TẠO TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG NHÌN TỪ NGHỆ THUẬT DỤNG ĐIỂN (08/11/2025)
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1794871
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 63913
Truc tuyen Trực tuyến: 10

...

...

Designed by VietNetNam