TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
MAI NINH - MỘT THÂN PHẬN VĂN CHƯƠNG VIỆT NGOÀI BIÊN GIỚI -Tiểu luận ĐỖ THỊ PHƯƠNG LAN
MAI NINH - MỘT THÂN PHẬN VĂN CHƯƠNG VIỆT NGOÀI BIÊN GIỚI -Tiểu luận ĐỖ THỊ PHƯƠNG LAN
NGUỒN: Vanvn- Cập nhật ngày: 3 Tháng 7, 2025 lúc 15:35
Trong dòng chảy văn học Việt Nam ở hải ngoại sau 1975, Mai Ninh hiện lên như một ngọn gió mang theo hơi thở quê hương, thấm đẫm nỗi niềm hoài nhớ và khát vọng tìm về cội nguồn. Sinh năm 1950 tại Sài Gòn, du học trước 1975 và định cư tại Normandie, Pháp, sau đó trở về Việt Nam cho đến cuối đời, bà đã góp phần định hình khuynh hướng “tìm về cội nguồn” trong văn học di dân Việt qua các trang viết tự sự và đậm phong cách văn chương riêng. Văn Mai Ninh – như chính cuộc đời của bà – dù sống và viếttừ nơi đất khách nhưng tác phẩm của bà luôn trên một hành trình trở về, không chỉ là trở về bằngký ức mà còn là sự trở về của một nhân cách nghệ thuật viết bằng tiếng mẹ đẻ nơi xứ xa.
Nhà văn Mai Ninh
Nỗi đau lưu vong và tiếng vọng của cội nguồn trong tâm thức người nữ di dân
Mai Ninh, thuộc thế hệ “một rưỡi” của văn học hải ngoại, rời nước ra đi trước 1975 trong tâm thế của một du học sinh với nhiều khát vọng học thuật, dù sống bằng một nghề nghiệp không liên quan đến việc sáng tác văn chương nhưng bà đã trở thành một cây bút hải ngoại viết văn Việt với một số tác phẩm được in và xuất bản không chỉ ở hải ngoại mà còn được phát hành trong nước. Trong bối cảnh hiện tượng viết nữ của văn đàn hải ngoại ngoại xuất hiện sôi nổi, văn Mai Ninh đã góp một giọng văn rất riêng, gọi lại tên những gì đã và đang mất trên bước đường lưu vong.
Trong truyện Cá voi trầm sát, bà tái hiện hình ảnh Nha Trang qua những dòng văn giàu chất thơ: “Biển Nha Trang vẫn xanh trong ký ức, nhưng những con cá voi đã rời đi, như chúng tôi, để tìm một nơi khác để thở. Chỉ còn tiếng sóng vọng lại, như lời ru của mẹ”. Hình ảnh “cá voi trầm sát” là một ẩn dụ vừa mới mẻ vừa cũ kỹ từ cách gọi tên, gợi lên sự mất mát dạt trôi rồi khỏi cội nguồn như những đợt thuyền nhân di tản lạc trôi nơi bờ bến lạ. Tiếng sóng, như “lời ru của mẹ,” trở thành sợi dây vô hình nối kết nhân vật với quê hương, tạo nên một không gian tinh thần nơi bản sắc Việt được bảo tồn. Tiếng ru của mẹ là một phần ký ức bền vững hình thành căn cốt Việt dù người di dân có trôi dạt như sóng xa rồi cũng tấp về bờ bến mẹ.
Những chương nối chương trong cuốn tiểu thuyết này như một bộ phim tái hiện lại một đoạn thời cuộc Việt Nam từ khi chưa chia cắt hai miền đến hành trình di cư Nam tiến của một gia đình với những phận đời người đàn bà bị cuốn theo dòng binh biến và câu chuyện lại được tiếp nối với hành trình di cư thứ hai rời bỏ đất nước. Hai lần ly hương trong dòng chảy cuộc đời một gia đình không phải là chuyện đơn lẻ trong văn chương hải ngoại, ta gặp nó trong văn của Trần Vũ, của Nam Dao, Hoàng Khởi Phong, Trịnh Y Thư… Viết về nỗi ly biệt “bội số” này, hẳn là trong tâm thức Mai Ninh tiếng vọng của nguồn cội thôi thúc đến thế nào… Quả vậy, “Mai Ninh không chỉ viết về ký ức mà còn biến nó thành một hành trình tâm linh, nơi cội nguồn được tái sinh” (Phan Huy Đường, 2005).
Những câu chuyện trong văn Mai Ninh đan lồng những hiện tại xứ xa và quá khứ quê nhà khiến người đọc không thể không minh xác rằng quê hương chính là phần nền tảng trong hành trình thân phận. Trong Mây một ngày, bóng quá khứ lộng trong bóng hiện tại nhập nhoè đan bện tự sự câu chuyện đời người trong một bối cảnh vừa hư cấu mà vừa rất thực, rất Việt Nam của một thời gian đang dừng lại của những ngày chiến cuộc trước 1975. Trong Mưa đá âm dương, Mai Ninh đã khắc họa dư chấn hành trình rời xứ của thuyền nhân như một ám ảnh không dứt: “Mưa đá rơi trên biển, không phân biệt âm hay dương, chỉ biết gào thét. Những người sống sót mang trong tim một vết thương, nhưng cũng mang theo tiếng gọi của quê hương” (Mưa đá âm dương). Có thể nói, biển và sóng, âm và dương, đêm và ngày, thực và ảo… trong trang viết Mai Ninh mang đậm dấu ấn văn hoá Việt trong cảm thức nước đôi về sự sinh tồn và vũ trụ. Những ẩn dụ mang tính biểu tượng lưỡng phân này vừa là cái thực trong tâm lý văn hoá Việt, trong ký ức về quê nhà nhưng cũng là một ký ức đã được tái sinh trong dòng văn chương hồi tưởng của bà:
“Thế rồi Ngư bỗng hất nàng xuống, đột ngột bỏ đi, cơ thể cuộn dài như thân cá, duỗi theo dòng nước rút ra biển nhanh không ngờ. Mưa tạnh lúc nào Phượng chẳng hay. Hai cánh dơi nằm chết trên mặt cát óng ánh dưới sắc cầu vồng lừng lững nơi góc trời. Phượng hoảng hốt thu cánh, nhỏm dậy, nhìn về phía màu xanh mênh mông đang hiện rõ dần. Thoáng một bóng xám bạc lao thẳng vào ngọn sóng dâng cao. Chim hay cá hở Ngư? Anh đấy, loài cá bị giam cầm trong biển kín, chim mãi là em, hãy đứng dậy, chắp cánh bay đi, can đảm tìm hộ anh cuối dòng sông ấy” (Mưa đá âm dương). Hình ảnh “chim” và “cá” và sự hoá thân rất huyền ảo mà cũng vô cùng hiện đại đã gợi lên sự đối lập và hòa hợp, gợi miên tưởng về những cách giải giới hạn và cũng là những ẩn dụ gợi liên tưởng đến những cổ mẫu trong văn chương Việt.
Trong nhiều trang văn di tản của người Việt, hiện tượng thuyền nhân đã trở thành một nỗi đau, một kiểu “chấn thương di dời” (Đỗ Thị Phương Lan), Mai Ninh bằng trang viết hồi tưởng và tái hiện của mình đã góp phần tái tạo ký ức tập thể của một cộng đồng người Việt Nam nơi hải ngoại, đã gióng lên một tiếng nói bằng trang văn Việt nơi xứ người về một nỗi niềm hoài hương khó phai mờ với mảnh đất chôn nhau cắt rốn đã rời ra… Cảm thức về biển về sóng về sự hoá thân hay sự nhập nhằng ảo thực- sống chết luôn trở đi trở lại trong văn Mai Ninh, hẳn là một ám ảnh của di chứng thuyền nhân của một cộng đồng đáng thương rời xứ bằng con đường mạo hiểm nhân mạng trong cơn mê hoảng của thời cuộc, mà mặc dù không phải là một thuyền nhân, Mai Ninh không hề ngoài cuộc với nỗi đau cộng đồng. “Ôi chị không quên được, chị sợ tàu thuỷ lắm”, “Biết đâu bây giờ cũng vượt biên và biệt tích như chị Thư trong biển rộng (Đêm rượu đợi)…
Biển – sóng – mưa đã trở thành một thứ ám ảnh trong trang viết của Mai Ninh, bà đặt gần như tất cả các tự sự của mình vào trong những bối cảnh đó, và trên nền những bối cảnh đó, thân phận con người được làm nổi bật như thể biển và sóng là thứ xúc tác không thể thiếu. Trong rất nhiều tác phẩm của mình, Mai Ninh đều tả biển, kể biển, vẽ sóng và vẽ cả biển, cả sóng biển, cả cơn mưa trên biển vào trong dòng độc thoại nội tâm nhân vật: “Được rồi, hãy trôi đi, trôi đi dòng sông. Phải cuồng nộ lên, chảy xiết đi cho tức tốc ào ra tới biển… Tôi thả mình băng băng giải thoát, trào tuôn đến tận cùng, gặp biển mênh mông” (Đêm rượu đợi); “cả một không gian bao la trước mặt. Thuỷ triều rút biển ra xa, xa mút. Cô đau cóng và ngạc nhiên thấy mình chân lún trong vũng nước, trên người vẫn chiếc áo dạ mùa đông. Biển cuộn đi để lại thênh thang những đầm cát cuộn, gió buốt chạy lăn tăn màn nước đọnhg. bầu trời xám đục, không mặt trời lẫn trang sao, không thể nói sáng hay chiều. Mà đêm hay ngày thì có hề chi giữa mơ tìm ảo thực”(Đi tìm).
Trong Hợp âm trong vùng sân khuất, bà viết:
“Căn sân cũ hiện lên trong giấc mơ, nhưng tiếng chim én giờ lẫn với tiếng còi xe Paris. Tôi sợ một ngày mình quên cách gọi tên những con đường Sài Gòn”. “Tiếng chim én” gợi lên ký ức quê hương, nhưng sự hòa lẫn với “tiếng còi xe Paris” phơi bày trạng thái lấp lửng. Phan Huy Đường nhận xét rằng “Mai Ninh không chỉ viết về sự mất mát mà còn về khả năng hòa hợp, tạo nên một bản sắc mới từ những mảnh ghép văn hóa” (Phan Huy Đường, 2004).
Qua đó, bà mở ra một đối thoại sâu sắc về bản sắc trong bối cảnh toàn cầu hóa. Các tự sự của Mai Ninh luôn được đặt trong tình trạng lưỡng phân không gian quê nhà và xứ lạ, từ đó bà đã tạo ra một không gian riêng cho tự sự của mình, một không gian ở giữa không có thật, không được hiển lộ về mặt địa lý mà là một không gian trong tâm tưởng: Thành phố cuối thập niên bốn mươi thênh thang, con người không nhòm nhỏ, gò ép thói lề. Đô đến đón ở cửa hiệu cuối chiều, tôi bung lên người Đô những miếng tơ óng ả. Tôi cười nấc dưới mảnh lụa Bombay mịn hơn ánh trăng, tôi sung sướng vì lời kể chuyện khôi hài dí dỏm của Đô và đòi bật máy hát, dọn một khoảng trống trong cửa hàng để Đô dìu đi trong một điệu nhảy mới học. Chiều Saigòn cuốn gió, con đường Norodom đầy lá bay. Tôi, thời chưa biết đau.” (Cá voi trầm sát). Qua cách tạo mới này, Mai Ninh đã kiến tạo một loại không gian mới, kiến tạo một chỗ đứng quyền lực cho diễn ngôn di dân của mình mà không một cộng đồng sắc dân bản địa nào có.
Là người viết nữ, Mai Ninh đặt trải nghiệm nữ giới vào trung tâm của cảm hứng tìm về cội nguồn. Truyện Cá voi trầm sát với những thân phận đàn bà di cư đã tái hiện một dòng chảy xã hội của một thời nữ lưu trong cảm hứng với áo dài Le Mur Cát Tường đất Hà thành tiền chiến dạt trôi và bi phẫn với những nỗi đau bị trinh tiết bị xâm hại mà phải cắn răng nín chịu vì danh dự gia giáo cho đến những chìm nổi xứ người trong đời sống những phận người đàn bà… Những phận người nữ được đặt vào hồi ức tự sự từ trẻ thơ khuê các đến dạn dày nếm trải, từ êm đềm đến bão giông lưu xứ. Mai Ninh kể về những nổi trôi trong dòng chảy phận đời của những người đàn bà trong một gia đình danh giá, có trẻ thơ, có sôi nổi, có đớn đau, có dằn vặt, có thản nhiên đón nhận và dạn dày trải nghiệm; có cả cái chết kiểu chấn thương tâm hồn dai dẳng, của nỗi đau kết tủa từ bao nhiêu cay đắng đoạn trường trong tư thế ám ảnh và đáng thương của một người đàn bà bị thất tiết một lần mà đớn đau mãi mãi đến độ không một lần dám bước ra khỏi nỗi đau của mình, câm nín mãi mãi, chấp nhận mãi mãi một thân phận không có đàn ông.
Trong Ảo Đăng, bà miêu tả một phụ nữ đứng giữa lằn ranh văn hóa: “… bóng người kề cận lúc nào chẳng hay biết, bàn tay kéo tấm áo tôi lên. Nó ấp vào da đùi một mềm ấm đến nỗi tôi không co quắp sợ mà các thớ thịt cứ tự động dãn ra, hứng lấy. Cố mở mắt nhưng toàn bộ một màn tối mênh mang hay là thứ sương phủ chập chùng” (Ảo Đăng). Hình ảnh “màn tối mênh mang” và “sương phủ chập chùng” tượng trưng cho trạng thái lấp lửng, nơi ký ức và thực tại đan xen. Sự mơ hồ trong đoạn văn này phản ánh sự giằng xé giữa bản sắc Việt Nam và môi trường mới, phản ánh tâm tư “ở giữa” của người nữ di dân trên những ranh giới của xuyên văn hoá, xuyên cả trong tâm tư nữ tính. Trong Ảo đăng, Bóng phượng, trong Hải nữ, Mây một ngày, Ẩm ướt những cơn mưa,… Mai Ninh kể những câu chuyện đan xen ảo thực, ranh giới nam nữ mờ nhoà nhưng vẫn nặng sức tải của một trữ lượng tính nữ Việt rất rõ rệt … “Qua các nhân vật nữ của mình, qua những tự sự vừa gần gũi vừa mới mẻ xa lạ, Mai Ninh đã làm phong phú tiếng nói giới trong văn học Việt Nam hải ngoại.
Tác giả bài viết: Nhà phê bình Đỗ Thị Phương Lan (Trường Đại học Đà Lạt)
Làm mới ngôn ngữ tự sự Việt bằng điểm nhìn người nữ di dân
Kể những câu chuyện di dân Việt bên ngoài quê hương, Mai Ninh sử dụng cấu trúc tự sự phân mảnh để phản ánh sự gián đoạn các giá trị và giới hạn của cuộc sống lưu vong. Trong Cá voi trầm sát, các chương trong truyện vừa như những truyện ngắn độc lập vừa như một khối có thể lắp ghép các mảnh rời tuỳ ý. “Biển vẫn hát, nhưng lời ca đã đổi. Tôi đứng đây, giữa Normandie, mà lòng vẫn nghe tiếng sóng Nha Trang” (Cá voi trầm sát). Nhịp điệu chậm rãi và chất thơ trong câu văn gợi lên hình ảnh sóng biển như ký ức trồi sụt, như một hành trình trở về cội nguồn bằng nỗi nhớ. Cấu trúc phi tuyến tính tạo ra một không gian nghệ thuật, nơi độc giả phải tự lắp ghép những mảnh ký ức. Qua các câu chuyện của mình, Mai Ninh đã cố tình xoá nhoà các biên giới không gian thật- ảo, quê nhà- xứ người, xoá nhoà các cấu trúc tuyến tính của tự sự truyền thống và đã tạo ra một bức tranh của những mảnh lắp ghép rời rạc. Miêng nhận xét rằng “cấu trúc phân mảnh của Mai Ninh là một cách để tái hiện sự hỗn loạn của lưu vong, nhưng cũng là cách để tìm lại trật tự của cội nguồn” (Miêng, 2004). Phải chăng, để cho người đọc tự lắp ghép các mảnh vỡ cũng chính là cách Mai Ninh dẫn dắt người đọc vào hành trình ký ức của mình- một bức tranh ký ức vỡ vụn của cộng đồng để lần trở về nguồn cội?
Là người viết trẻ so với lớp nhà văn thuộc thế hệ thứ nhất di tản từ Miền Nam sau 1975, Mai Ninh và các nhà văn hải ngoại cùng thế hệ cầm bút như Võ Đình, Nam Dao, Miêng, Trần Vũ, Trịnh Y Thư… có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với các trào lưu tư tưởng- thẩm mỹ Âu Tây hiện đại nên có thể thấy việc sử dụng các kỹ thuật viết đương đại trong tự sự của của lớp nhà văn này là điều khác biệt so với thế hệ cầm bút thứ nhất. Bút pháp dòng ý thức là một kỹ thuật mà văn chương thế giới đã công nhận là cách thức phù hợp để diễn tả ký ức qua những tác phẩm của Marcel Proust cho đến các nhà văn lưu vong đương đại.
Trong văn Mai Ninh, dòng ý thức giúp bà khám phá chiều sâu tâm lý, đặc biệt là tâm lý người nữ di dân trong không gian trú xứ xô lệch và trôi dạt: “Mai Ninh để nhân vật tự sự của mình trôi theo dòng suy tư, như cách họ đã từng trôi dạt trên chặng đường lưu xứ và cũng chính là cách họ tìm về quê hương trong tâm tưởng. Trong Mây một ngày, bà viết: “Tôi chới với dang tay ôm lấy vòm mây, dúi mặt vào một điều rất thực. Nào ngờ từ đó, mùi táo xanh rưng rưng, trên da thịt Mây nó đã thắp hương đằm thắm… Vẫn có điều kỳ diệu trên đời, tao tưởng sau đêm mây mày không đến nữa. Tôi sững sờ đẩy Mây ra, nắm lấy bàn tay mềm nhưng ram ram vết cứa. Vẻ bàng bạc ngờ dại trong mắt đã bay đi, Mây nhìn suốt qua tôi. Có những giọt nước của cơn mưa đang rực rực bốc hơi trong tia nắng chảy”. Trong truyện ngắn này, nhiều đoạn văn bất chấp lối đàm thoại thông thường, bất chấp lối xuống dòng, ngắt đoạn, trần thuật từ một điểm nhìn, Mai Ninh đã tạo ra một cách tự sự tuôn chảy mạch của ký ức trộn lẫn với thực tại, lồng ghép nội tâm các vai kể và nhân vật trong trạng thái tâm thức miên viễn của tâm thần lạc trôi.
Dòng ý thức, với sự chuyển đổi mượt mà giữa ký ức và thực tại, tạo ra một không gian mơ hồ của những mảnh ghép nối, là nơi nhân vật đối diện với câu hỏi về bản sắc nơi mà sự va chạm văn hoá diễn ra căng thẳng hàng ngày: “Thế giới chung quanh từ đấy bốc thành hơi cuồng bay, cả con kinh mà mặt nước vốn đằm cũng nhộn nhạo cả lên bao con sóng. Tôi hạnh phúc và lo âu sợ hãi, đồng một loạt. Đôi ngày chiếc điện thoại lại reo. Bên kia những câu thúc giục nhẹ nhàng cho một lần gặp mặt. Tôi hoảng hốt viện cớ lùi dần. Để rồi buông máy ra là rơi chao xuống vực. Mê sảng từng cơn, tôi không còn mò mẫm đọc tên những hàng xóm già trẻ nằm cạnh bố tôi vào buổi chiều nhán nhem mà thấy mình phất phơ màn áo lụa xanh tròn luân vũ với hình nhân, dưới ánh mắt chăm chú diễu cợt của chàng rồi bỗng nhiên tôi ngã sụp xuống, tứ chi gãy rụng…” (Ảo đăng). Không hẳn chỉ là kể từ ngôi thứ nhất, không hẳn chỉ là tả từ nội tâm nhân vật, Mai Ninh kể chuyện như thả một điệu luân vũ của những cảm xúc khó hiểu, rối rắm, thăng trầm, co giãn của tâm tư bề bộn. Khi mà tâm thức chao đảo giữa ký ức với thực tại, nhận thức giằng co với vô thức, cái ngã với cái siêu ngã lập lờ, thì bút pháp dòng ý thức quả thực rất đắt. Mai Ninh đã sử dụng lối viết dòng ý thức như một cách miên trải ý thức giữa ba bề ký ức- hiện tại và mơ ảo với lối diễn đạt mượt mà nữ tính mà rất riêng. Phan Huy Đường nhận xét rằng “dòng ý thức của Mai Ninh là một lời thì thầm từ tâm hồn, nơi cội nguồn được tái hiện qua những mảnh ký ức” (Phan Huy Đường, 2004).
Các tự sự của Mai Ninh luôn được đặt trong tình trạng lưỡng phân không gian quê nhà và xứ lạ, từ đó bà đã tạo ra một không gian riêng cho tự sự của mình, một không gian ở giữa không có thật, không được hiển lộ về mặt địa lý mà là một không gian trong tâm tưởng. “Không ngờ từ hôm gặp lại Mây, tôi bập bềnh trong chuyến về quê hương. Chủ tâm đón nhận những cảm xúc, suy tư chủ quan bị đẩy lui, mất biến. Tâm thức trôi giạt vào dòng sông ký ức, và hiện tại bị xoắn bện những sợi dây cước cứa rát vô hình.” (Ảo đăng). Qua cách tạo mới này, Mai Ninh đã kiến tạo một loại không gian mới, kiến tạo một chỗ đứng quyền lực cho diễn ngôn di dân của mình mà không một cộng đồng sắc dân bản địa nào có: “Nhưng cuộc hành trình nào cuối cùng cũng là một vòng tròn phải khép. Nếu cứ đi mãi, sẽ nhận ra, tất cả, sẽ vòng trở về. Sẽ gặp những gì ta chưa từng thấy nhưng thật ra đã hiện hữu, khuất chìm yên ngủ từ một sâu thẳm nào, hơn cả ký ức. Tựa khuôn mặt tự nó đã thân yêu đến nỗi nhoà đi tất cả đường nét, chỉ còn lại một điều mà nguời ta gọi là tưởng nhớ” (Đi tìm). Vọng cố hương, với thế hệ cầm bút một rưỡi, những người sống đa ngữ bên ngoài quê hương, ký ức quê nhà trên hành trình lưu xứ không phải là những mảnh hình ảnh vẹn nguyên thô thật như chụp ảnh mà là một ký ức được tái tạo bằng tâm thức lưỡng phân, một sự kiến tạo quê nhà tâm tưởng bằng diễn ngôn văn học di dân Việt trên thể loại tự sự.
Là nhà văn di dân, việc viết bằng tiếng mẹ đẻ cho một cộng đồng thiểu số xa xứ là một hành động tưởng chừng như vô vọng khi mà hiện tượng người viết và người đọc tiếng Việt ngày càng lão hoá và có nguy cơ biến mất. Gửi những đứa con tinh thần bằng tiếng Việt bay hút vào một vùng trời tiếp nhận với quá nhiều vệ tinh giải trí, quá nhiều mối quan tâm văn hoá- xã hội- chính trị bộn bề và nỗi lo trụ chân và thích nghi với đời sống lưu dân là một hành động vừa mạo hiểm với quỹ thời gian vừa là một cuộc chơi không có cơ hội chiến thắng. Vâỵ mà, những nhà văn hải ngoại vẫn kiên trì cầm bút, vẫn nhẫn nại gửi gắm những thông điệp văn chương cho “người mình” (Nam Dao). Và, hẳn nhiên, Mai Ninh góp mặt trong số đó. Bằng nền tảng của một trí thức được hấp thụ căn bản nền tảng tiếng Việt, bằng một sự tinh nhạy nghệ sĩ và tường mẫn của một bậc nữ lưu hiện đại, Mai Ninh đã viết lên những trang văn Việt bên ngoài quê hương thật đẹp thật giàu chất nữ, thật thuần thục và thật tân kỳ. Cách bà đặt tên cho những tác phẩm của mình đã thể hiện một năng lực bén nhạy của người sáng tạo trên hành trình ngôn ngữ: Hợp âm vùng sân khuất, Vức nắng, Mưa đá âm dương, Cá voi trầm sát, Ảo đăng, Đêm rượu đợi…
Nhà văn Nguyên Ngọc khi giới thiệu văn Mai Ninh với bạn đọc trong nước, đã viết: “Chúng ta được chứng kiến ở tác phẩm của Mai Ninh một điều kỳ diệu của ngôn ngữ: một hệ thống ngôn ngữ văn học Việt nhuần nhuyễn có thể “Việt hoá” những nội dung, những cảnh, những người, những vấn đề tưởng chừng rất “tây”, rất xa lạ với chúng ta. Nghĩa là cũng có thể nói cách khác, đời sống tinh thần của chúng ta được làm giàu thêm những điều mới mẻ thông qua hệ thống ngôn từ văn học vừa rất Việt vừa rất hiện đại mà Mai Ninh đã xử lý thành công… Có phải ít nhiều chị đã vẽ ra được một kiểu chân dung tinh thần của con người Việt thời hiện đại, thời hội nhập mà ta đang băn khoăn đi tìm?” (Ảo đăng).
Ngôn ngữ của Mai Ninh, là một bản hợp âm của chất thơ Việt Nam và sự cách tân phương Tây và cũng là bản giao tấu của nhiều thứ mỹ cảm nghệ thuật, nó trộn lẫn giữa âm thanh, màu sắc đường nét và hình khối, có khi nó lại linh hoạt biến tấu đa chiều như ngôn ngữ điện ảnh. Có lúc nó trầm mặc tự sự như lời của người già nhưng có nhiều lúc chẳng ngờ, nó trào nhịp, rừng rực mê say rồi lịm ngắt sau cực điểm của cảm xúc: “Tôi giật mình, đoá mận tía như đang đón đợi mời mọc tự bao giời, vội vã bấn lên. Trong sọ xát mơn man, những tấm cánh lịm hồng viền tím vén ra, rung rinh bao giọt sương li ti. Bất chợt, mặc kệ hoa còn đang hốt hoảng, một chiếm hữu bỗng xâm suốt qua nhuỵ, qua qua đài qua cuống, lọt vào không nể nang. lạ lùng, nó là gì mà đủ mịn đủ trơn đủ mềm đủ cứng để phá nứt bao tầng đất hoang, đụng tới đay dộng thâm sâu, vùng vẫy”. Thật sự chín trong diễn đạt giàu chất Việt tế nhị, thật sự chín trong cảm xúc nhục cảm đàn bà, thật sự táo bạo và hiện đại trong mô tả những pha điện ảnh giàu điểm nhìn,… Mai Ninh đã tỏ ra rất thành công khi làm mới ngôn ngữ tự sự giàu chất nữ quyền hiện đại như thế.
Kết luận
Văn Mai Ninh là một hành trình tìm về cội nguồn, nơi ký ức quê hương được tái tạo qua những câu chuyện đậm chất thơ và những cách tân nghệ thuật. Thông qua các chủ đề hoài niệm, nỗi đau lưu vong, tiếng nói nữ giới và sự cọ xát – giao thoa văn hóa, bà đã khắc họa sống động tâm hồn của cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại bằng những trang văn tiếng Việt thực sự đậm nét riêng. Đọc Mai Ninh từ điểm nhìn của một người đọc trong nước, trên các thực hành lý thuyết, chỉ qua các phác hoạ như kỹ thuật tự sự như cấu trúc phân mảnh, lối viết thể hiện dòng ý thức, việc sáng tạo các biểu tượng văn hóa vừa kế thừa cổ mẫu Việt vừa mang yếu tố siêu thực hiện đại… là chưa đủ để du hành vào thế giới văn chương của bà. Mà hơn thế nữa, cần có một độ đằm chín để cảm qua lối diễn đạt nghệ thuật ngôn ngữ rất riêng, rất Mai Ninh mà cũng rất thời đại của một mảnh tiếng Việt nghệ thuật ngoài quê hương để không chỉ “đọc” được văn và người một Mai Ninh mà còn là một thân phận văn chương Việt ở ngoài biên giới…
ĐỖ THỊ PHƯƠNG LAN
________________________
Tài liệu tham khảo:
1. Đỗ Thị Phương Lan. (2018). “Chấn thương di dời” trong một số truyện ngắn Việt Nam hải ngoại sau 1975. Tạp chí Nghiên cứu văn học (2-552)
2. Mai Ninh. (2003). Ảo đăng. Hà Nội. NXB Hội Nhà văn.
3. Mai Ninh. (2004). Cá voi trầm sát. Hồ Chí Minh. NXB Trẻ.
4. Miêng. (2004) “Giới thiệu cá voi trầm sát. http://amvc.free.fr/Damvc/Mieng/PheBinh/CvtsMIENG.htm
5. Phan Huy Đường. (2004) “Miên, một bước đi dài hơn thế kỷ”. http://amvc.free.fr/Damvc/Mieng/PheBinh/CvtsMIENG.htm.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.