• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Diễn đàn lý luận
 
PHẠM ÁNH SAO 'ĐI DỌC MÙA THƯƠNG' - Tiểu luận MAI VĂN PHẤN

PHẠM ÁNH SAO 'ĐI DỌC MÙA THƯƠNG' - Tiểu luận MAI VĂN PHẤN



NGUỒN: Baovannghe.vn - 28/11/2025

Trong tiến trình thơ Việt đương đại, trường ca luôn được xem là thể loại thử thách sức bền ngôn ngữ và tầm vóc tư tưởng - nơi người viết bộc lộ năng lực sáng tạo, khả năng bao quát và chiều sâu chiêm nghiệm đời sống. “Đi dọc mùa thương” của Phạm Ánh Sao xuất hiện trong dòng chảy ấy với lựa chọn riêng.

Phạm Ánh Sao “Đi dọc mùa thương”
Bìa cuốn Đi dọc mùa thương

Trường ca gồm 5 chương, được tổ chức theo cấu trúc tuyến tính của một hành trình từ Bắc vào Nam, đồng thời khép lại trong chu trình tâm thức: khởi đầu - đi qua - trở về - tỉnh thức. Đây là mô hình trường ca hành trình mang cảm thức thiền, chuyển động không gian trong đó được song chiếu với hành trình hướng nội của chủ thể trữ tình. Hai mạch vận động - ngoại giới và nội tâm - tương tác, tạo nên một cấu trúc đồng hiện, vừa mở rộng biên độ tri nhận đời sống, vừa đào sâu vào bản thể tinh thần.

Đi dọc mùa thương vận hành theo nguyên lý thu nhiếp và chiêm nghiệm. Hành trình không nhằm miêu tả địa lý, mà kiến tạo trục vận động tâm linh, trong đó mỗi miền đất là một tầng nhận thức, nhịp chuyển của tiến trình tỉnh thức. Cấu trúc ấy giúp trường ca đạt tới tính tuần hoàn của cảm xúc và tư tưởng, như dòng sông chảy ra biển rồi hóa thành cơn mưa trở về nguồn - biểu tượng cho sự tự hoàn nguyên của ý thức thi ca. Mô hình hành trình - thiền tính này thể hiện nỗ lực mở rộng biên giới thi pháp trường ca Việt đương đại của Phạm Ánh Sao, khi đưa thể loại từ bình diện tự sự - miêu tả sang chiều kích chiêm nghiệm - tâm linh, nơi ngôn ngữ trở thành phương tiện nhận thức và cứu rỗi tinh thần.

Trong hệ thống hình tượng của trường ca, “mùa thương” vừa là điểm khởi đầu, vừa là nơi hội tụ của toàn bộ cảm xúc và tư tưởng. Hai yếu tố “mùa” và “thương”, khi kết hợp, đã tạo nên biểu tượng mang chiều sâu triết học và nhân văn. “Mùa” gợi chu kỳ sống, sự đổi thay và tiếp nối; “thương” biểu trưng cho cảm xúc căn nguyên của con người.

- Hà Nội thở qua lòng người rất khẽ

Gửi mùa thương vào sương khói mơ hồ

(Chương I)

- Câu thơ bầu bạn cùng say

Mùa thương tím cả nơi này Huế ơi

(Chương II)

Ở tầng triết học, “mùa thương” biểu hiện cho chu trình đánh thức nhân tính. Con người chỉ thật sự thấy được ý nghĩa của đời sống khi biết yêu thương người khác, cũng là cách hiểu và cứu chuộc chính mình. Trong nghĩa đó, “mùa thương” không đơn thuần là thời khắc cảm xúc, mà là một mùa tâm linh. Từ biểu tượng này, trường ca xác lập nền tảng nhân văn rõ nét: lòng thương yêu là hình thái tư tưởng, là đạo lý sống.

Trong Đi dọc mùa thương, hình tượng đất nước hiện lên qua những hơi thở nhẹ nhàng và tinh tế, gợi cảm nhận về một hiện thực được soi chiếu bằng lòng nhân ái. Cái nhìn giản dị mà sâu sắc ấy giúp tác phẩm chạm tới tầng thiêng của đời sống, nơi vẻ đẹp đất nước không chỉ hiện ra trong hình ảnh cụ thể mà còn trong cảm xúc và chiều sâu nhân văn. Nhờ cấu trúc biểu tượng được tổ chức chặt chẽ, “mùa thương” trở thành cửa ngõ mở ra nhiều chiều suy tưởng, đồng thời là trục tinh thần giúp trường ca đạt tới tính phổ quát của con người và dân tộc.

Có tiếng chuông từ lòng sâu đất mẹ

Vang trong tim và những giấc mơ

Không phải tiếng gọi về thương nhớ

Mà ngân lên mở lối bây giờ (Chương V)

Từ mạch thơ âm thầm, dòng cảm xúc dần mở rộng, dẫn người đọc vào không gian rộng mở, nơi tình thương yêu được cảm nhận bằng sự lắng nghe và đồng cảm. Ở đó, cảm xúc cá nhân mở ra trường cảm chung, nơi con người hòa mình vào nhịp sống của quê hương, nghe được từng nhịp đập của đất nước trong hơi thở bình dị. Tình yêu thương trở thành chiếc cầu nối giữa cái tôi và cái toàn thể, giữa số phận riêng và vận mệnh cộng đồng; hình ảnh Tổ quốc ẩn hiện trong những điều thân thuộc: tiếng gà trưa, giọt mồ hôi trên luống cày, bóng mẹ bên bếp lửa...

Cao nguyên đá

Đâu còn riêng đá nữa

Một sắc chàm

Cũng thắm giữa hoàng hôn

Phiên chợ cũ

Nghe mùi thơm bếp lửa

Gió gọi nhau

Từ hai nửa tâm hồn (Chương I)

Tổ quốc trong tác phẩm không được biểu hiện như một thực thể khách quan, tách biệt con người, mà được cảm nhận như bản thể nội tại, hiện hữu trong mọi vận động, trải nghiệm và trong chính phẩm chất nhân hậu, niềm tin bền bỉ của mỗi cá nhân. Quan niệm đồng nhất giữa con người và Tổ quốc ấy đã giúp tình yêu đất nước vượt khỏi tầng ý niệm hay biểu tượng, đạt tới chiều sâu nhân bản, lan tỏa trong lặng lẽ, bền lâu và nhân ái của đời sống tinh thần.

Bước chân em

Như câu then vừa mở

Giữa địa đầu

Tổ quốc vẫn mêng mang (Chương I)

Điều đáng trân quý là nhà thơ đã tìm thấy sự thống nhất giữa con người và Tổ quốc trong không gian văn hóa Việt, nơi mọi điều bình dị đều mang tính thiêng. Khi lòng thương lan tỏa, nó trở thành ánh sáng soi vào những điều nhỏ bé, làm hiện lên vẻ đẹp của sự sống và sức chịu đựng của dân tộc. Ở đây, yêu nước là một trạng thái tồn tại - bằng lòng nhân, khả năng sẻ chia, bằng ý thức sống hòa vào mạch nguồn đất mẹ.

Một trong những tầng nghĩa sâu kín của Đi dọc mùa thương là tư tưởng thiền - không phải như một phạm trù triết học hay giáo lý, mà như một cách sống, cách cảm nhận thế giới. Ẩn trong từng câu chữ, ta bắt gặp nhịp đi chậm rãi, an nhiên, như mỗi bước chân, mỗi hơi thở, mỗi chuyển động của lòng yêu thương đều đang hòa cùng nhịp thở của đất trời. Thiền ở đây không tách khỏi nhân sinh, mà tan hòa trong từng khoảnh khắc đời sống - nơi im lặng trở thành ngôn ngữ, sự giác ngộ là thước đo của lòng nhân.

Tiếng chuông

Không khép lại

Mà nó mở ra

Không để kết thúc

Mà để bắt đầu… (Chương V)

Trong nhiều đoạn thơ, con người hiện ra không với tâm thế chiếm hữu, mà bằng cái nhìn thấu hiểu và sẻ chia. Chính sự nhập thể ấy khiến giọng thơ có độ tĩnh, soi tỏ, giúp người đọc tìm thấy bản thể trong tấm gương phản chiếu của tình yêu thương. Nhà thơ cũng là người hành hương của tâm linh, lặng lẽ bước giữa đời sống để chiêm nghiệm về sự mong manh của kiếp người.

Tư tưởng thiền trong tác phẩm không hướng tới sự an trú trong nhân gian; bằng giọng thơ trầm tĩnh và tiết chế, tác giả gợi ra không gian của bình an nội tại, nơi lòng thương yêu, nhân ái không còn là cảm xúc, mà là năng lượng cứu rỗi; nó không còn phân biệt giữa riêng và chung, mình và tha nhân. Đó là lúc thiền và nhân ái gặp nhau - nơi con người tìm thấy sự giải thoát ngay trong tình yêu thương của mình.

Biển xanh gọi phía trăng sao

Sóng xô ký ức nao nao nỗi buồn

Vết thương cũ vẫn còn vương

Mà ngân khe khẽ tiếng chuông nghẹn lời

(Chương V)

Đi dọc mùa thương không chỉ cuốn hút bởi chiều sâu tư tưởng mà còn ở cấu trúc nghệ thuật. Toàn bộ trường ca vận hành theo thi pháp của hành trình tâm thức. Từ miền núi đá phía Bắc đến đồng bằng, từ cao nguyên ra biển đảo, người đọc theo bước chân thi sĩ đi qua những không gian địa lý và tinh thần của đất nước. Mỗi chặng đường là một tầng nội cảm, nơi địa lý hòa cùng ký ức và văn hóa, để nhà thơ đối thoại với lịch sử và với chính mình. Trong hành trình ấy, hệ thống biểu tượng giữ vai trò trung tâm, tạo nên ngôn ngữ thiêng của tác phẩm. Những “gió đồng”, “chuông chùa”, “bông lúa”, “giọt sương”, “đá”, “sông”, “biển”... vừa mang sức sống tự nhiên, vừa kết tinh năng lượng tinh thần, biểu đạt những trạng thái của lòng yêu thương, sự tỉnh thức và tình gắn bó với Tổ quốc. Nhờ sự vận hành linh hoạt ấy, biểu tượng trong trường ca mở ra hệ quy chiếu đa tầng - nơi mọi hình ảnh có thể hóa thân, chuyển nghĩa và phản chiếu lẫn nhau như trong miền ký ức và lòng nhân thẳm sâu.

Đi dọc mùa thương được tổ chức theo nhịp chậm, giàu tính chiêm nghiệm. Giọng thơ khi rưng rưng như lời kể thì thầm: Tôi rời Hà Giang/ Mang theo một cục đá/ Với lời thì thầm/ Của người đàn ông Mông/ ‘Người ta có nghĩ đá không biết đau’ (Chương I), khi sáng lên như tiếng chuông mời gọi mà điềm tĩnh: Lâm Đồng/ Nơi sương không rơi/ Mà ở lại/ Tôi đi qua triền dốc/ Thấy hoa trong mắt ngựa/ Mọc bên bờ mơ hoang (Chương III).

Ngôn ngữ trong trường ca được tiết chế, trong sáng và giàu nhạc tính. Những khoảng lặng giữa các khổ thơ là độ mở của tư tưởng, giúp ý nghĩa lan tỏa sâu hơn; thơ đạt đến độ trong của thiền, độ sáng của tâm, khiến mỗi biểu tượng đều mang sắc thái cụ thể, nơi hữu hình gặp vô hình trong chiều sâu tinh thần.

 

Trong bối cảnh thơ Việt đầu thế kỷ XXI, Đi dọc mùa thương thể hiện nỗ lực khôi phục chiều sâu nội tâm của thể loại trường ca. Giá trị của tác phẩm nằm ở khả năng kiến tạo quỹ đạo suy tưởng mới cho thơ Việt đương đại: trở về với nội tâm như cách tái thiết lập căn cước tinh thần, lấy lòng nhân ái làm nguyên lý sáng tạo, để thơ vừa là nghệ thuật ngôn từ vừa là hành vi sống, góp phần giữ gìn ánh sáng nhân bản giữa thế giới nhiều biến động.



Tin tức khác

· THƠ PHAN HOÀNG - NHỮNG ÁM ẢNH CUỒNG PHONG, BÃO LŨ - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· PHẠM ÁNH SAO 'ĐI DỌC MÙA THƯƠNG' - Tiểu luận MAI VĂN PHẤN
· TẠI SAO VĂN CHƯƠNG MURAKAMI LẠI HẤP DẪN ĐẾN THẾ?
· HỮU LOAN - NHÀ THƠ MỘT THỜI
· CẦN VINH DANH NGƯỜI CÓ CÔNG ĐẶT NỀN MÓNG ĐÀNG TRONG
· LỊCH SỬ BỊ BÓP MÉO, PHÁP LUẬT BỊ BẺ CONG
· NHÀ THƠ XUÂN HOÀNG - LÒNG TÔI THÀNH CÁNH GIÓ LUNG LINH
· NHƯ LÀN HƯƠNG VÀ GIỌT SƯƠNG MAI - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· TỪ BỤC GIẢNG ĐẾN TÁC PHẨM - HÀNH TRÌNH LAN TỎA YÊU THƯƠNG
· VỊ THÁM HOA NÀO 10 NĂM GIỮ CHỨC TỂ TƯỚNG KHIẾN THIÊN HẠ YÊN VUI!
· BA NHÂN VẬT CÓ THẬT TRONG LỊCH SỬ XUẤT HIỆN TRONG MINH GIÁO GỒM NHỮNG AI?
· VÌ SAO KINH THÁNH KHÔNG HỀ NHẮC ĐẾN KIM TỰ THÁP AI CẬP?
· NHỮNG GIỌT SƯƠNG BAN MAI TINH KHIẾT - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· 'NHIỆM VỤ BẤT KHẢ THI' CỦA NỮ TÌNH BÁO MANG BÍ SỐ B3 CÙNG ĐIỆP VIÊN PHẠM XUÂN ẨN
· VÌ SAO LÊ ĐẠI CANG ĐƯỢC XEM LÀ 'BẬC HIỀN TÀI TOÀN NĂNG' CỦA TRIỀU NGUYỄN?
· LẮNG NGHE ƯU TƯ CỦA HIỀN GIẢ - Tiểu luận HỒ ANH THÁI
· NGÀN NĂM CHĂM PA TRONG VĂN HÓA XỨ QUẢNG
· DÒNG THƠ VĂN CỦA THANH TÂM TUYỀN - Tiểu luận ĐẶNG TIẾN
· TRẦN QUÝ HAI - VỊ TƯỚNG UY DŨNG
· TOP 5 QUÂN SƯ KIỆT XUẤT CỦA TAM QUỐC DIỄN NGHĨA, GIA CÁT LƯỢNG XẾP THỨ MẤY?

Tin tức mới
♦ THƠ PHAN HOÀNG - NHỮNG ÁM ẢNH CUỒNG PHONG, BÃO LŨ - Tiểu luận MAI BÁ ẤN (02/12/2025)
♦ CHÙM THƠ PHAN THANH ĐẠT - QUẢ ĐỊA CẦU PHẢN CHIẾU CẢ THẾ GIỚI TRÊN VÀNH LÁ (02/12/2025)
♦ HAI NẠN NHÂN SỐNG SÓT TRONG VỤ THẢM SÁT Ở QUẢNG NAM NHẬN GIẢI THƯỞNG RHEE YEUNGHUITHỨ 13 Ở HÀN QUỐC (02/12/2025)
♦ PHẠM ÁNH SAO 'ĐI DỌC MÙA THƯƠNG' - Tiểu luận MAI VĂN PHẤN (02/12/2025)
♦ TẠI SAO VĂN CHƯƠNG MURAKAMI LẠI HẤP DẪN ĐẾN THẾ? (02/12/2025)
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1819751
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 69303
Truc tuyen Trực tuyến: 4

...

...

Designed by VietNetNam