TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
'TIÊNG LÀNG' NẶNG NGHĨA NẶNG TÌNH -Tiểu luân THANH THẢO
'TIÊNG LÀNG' NẶNG NGHĨA NẶNG TÌNH -Tiểu luân THANH THẢO
NGUỒN: Vanvn– Cập nhật ngày: 2 Tháng 7, 2025 lúc 08:58
Nhà thơ Phan Xuân Luật
Phan Xuân Luật quê làng Đông, huyện Yên Thành, xứ Nghệ. “Đất nghèo sinh những nhân tài”, đây chính là ngôi làng của nhà cách mạng Phan Đăng Lưu-một tài năng kiệt xuất của Đảng. Yên Thành cũng là quê hương của một số nhà văn nhà thơ mà tôi quen biết như anh Nguyễn Xuân Phầu-lớp trưởng lớp Văn của tôi ngày tôi học Tổng hợp Văn Hà Nội, anh Nguyễn Thế Kỷ-nhà văn, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương, và anh Phan Xuân Luật – nhà thơ, nguyên Giám đốc Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Yên. Hóa ra, mấy anh này cũng đều từ “lò” Tổng hợp Văn Hà Nội mà ra cả.
Nhận được tập thơ đầu tay của anh Phan Xuân Luật, tôi đã đọc, và lắng nghe “Tiếng làng” trong thơ anh, một tiếng nói thầm thì, mộc mạc mà sâu lắng. Khi nhà thơ viết về làng mình, quê mình, bao giờ cũng nhỏ nhẹ như vậy:
“Tuổi lũ tôi giờ nói ít nghĩ nhiều
Gặp nhau vẫn mi tau một thuở
Rượu gạo nâng ly, chuyện xưa cùng nhớ
Chức tước, giàu sang cất giùm trên phố
Ngồi với nhau là những đứa trẻ làng”
Tôi thích tiếng thơ anh là tiếng trẻ làng ngây thơ như thế. Cái khó nhất với một nhà thơ là làm sao khi đã lớn tuổi, thơ họ vẫn như thời họ còn nhỏ, còn trẻ, nếu là trẻ làng trẻ trâu thì càng tốt.
Tập thơ “Tiếng làng” mở đầu bằng bài thơ “Miền Trung”, nơi đất nghèo đất nắng nôi lũ lụt mà sinh ra khối nhà thơ:
“Miền Trung
Nghĩa trang dày như xóm như làng
Người sống kề bên người chết
Hoàng hôn cháy nén nhang tiễn biệt
Gần hết làng tôi trai tráng không về”
(Miền Trung)
Một làng cực nghèo mà trai tráng đều đi bộ đội, và họ đã nằm lại khắp cùng đất nước. Vâng, họ đã ra đi từ mảnh đất làng mình:
“Đất ra giêng mịt mờ mưa bụi
Con cò rét run trên cành lộc mưng
Mẹ tôi đi cấy ngoài đồng
Nguyên ngấn gạch cua bàn chân ngồi sưởi
Cha tôi đi cày về
Ngón chân tòe ra như rễ
( Đất)
Tập thơ Tiếng làng – Phan Xuân Luật
Những người lính quê Yên Thành ấy đã góp cùng hàng triệu người lính là bộ đội Cụ Hồ 80 năm chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và gìn giữ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Hầu hết họ đều xuất thân là những đứa trẻ làng nghèo khổ:
“Những đứa trẻ làng tôi ít khi được no
Vẫn mong Tết để được ăn thịt cá
Giờ mâm cỗ đủ đầy mà bạn bè vắng quá
Chỉ mong Tết gặp nhau để nhắc chuyện Tết nghèo
(Những đứa trẻ làng tôi)
Thơ Phan Xuân Luật cứ nhỏ nhẹ thấm vào ta như vậy, đâu cần nói tiếng to, khoe lời chữ, mình lặng lẽ giành tiếng to cho sấm tháng ba:
“Tháng ba rồi tiếng sấm cũng khác hơn
Trời đang nắng cơn mưa chiều chợt đến
Hoa gạo đỏ chưa một lần lỗi hẹn
Lại bừng bừng cháy dọc triền sông
(Tháng ba)
Tôi là một người làm thơ rất thích hoa gạo, thích cái màu đỏ như lửa cháy của nó vào tháng ba, mãnh liệt mà tự nhiên, mà đột ngột. Khi đã thích màu hoa gạo, thì nhà thơ xứ Nghệ yêu luôn cả giọng Nghệ “quê choa” của mình, chất giọng ấy cũng có màu đỏ như hoa gạo:
“Thời trai trẻ còn ngượng ngùng giọng Nghệ
Không dám khoe đặc sản quê nhà
Giờ đã đi mọi phương trời góc bể
Giữa Hà thành oảng oảng giọng quê choa”
(Giọng Nghệ)
Khi đã yêu thương làng mình, thì hình ảnh ngôi chùa làng bình dị lại hiện lên trong thơ. Những ngôi chùa thanh bạch như thế là những ngôi chùa có Phật, vì nó chứa tình thương:
“Chùa làng chẳng đẹp cà sa
Áo nâu với vại dưa cà, chĩnh tương
Nghĩ làng giáp hạt mà thương
Hết khoai hết gạo lại nương náu chùa
( Chùa làng)
Người làm thơ đều biết cái khó khăn đến vô vàn khi đã quyết định mình sẽ “Ngậm ngải tìm trầm”, vì cây dó thì nhiều còn trầm thì quá ít, giống như câu chữ nhiều mà thơ ít vậy:
1. Trồng một nghìn cây dó
Được một cây có trầm
Một đời thơ ngậm ngải
Nhà thơ lòng lâng lâng
2. Bổ một nghìn tạ củi
Tìm được chút lõi trầm
Tay rộp phồng, búa mẻ
Nhà phê bình trầm ngâm
(Thơ)
Vâng, nhà phê bình không làm thơ thì thật khó biết cái gian khổ của người làm thơ. Nói thì dễ, làm thì khó, là vậy.
Tôi muốn tạm kết thúc bài viết này bằng trích một bài thơ ngắn nhà thơ Phan Xuân Luật viết tưởng nhớ người vợ đã quá cố của mình. Một bài thơ thật ngắn, mà cái tình nghĩa vợ chồng thì quá dài, cứ ngâm ngùi day dứt mãi:
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.