Quách Tấn từng gọi Bích Khê là con Khổng Tước - kiêu sa lộng lẫy và linh lực mạnh mẽ - trong làng Thơ Mới.
Mười hai tuổi, biết làm thơ. Mười lăm tuổi, đã có thơ gởi đăng trên báo, cạnh tranh với các lão tiền bối trong làng Đường thi. Chưa hai mươi tuổi đã mở trường, dạy học. Bị bệnh phổi tái đi tái lại nhiều lần, chữa không khỏi, ông bỏ cuộc đời lúc vừa tròn ba mươi tuổi.
Cuộc đời này, nghe rất na ná, giông giống một cuộc đời, phải không các bạn.
Chính cuộc đời na ná ấy - Hàn Mặc Tử, đã ảnh hưởng rất nhiều đến ông. Từ dòng thơ cổ điển, với sự khích lệ của Hàn Mặc Tử, ông đã nhanh chóng hòa nhập vào làn Thơ Mới, để rồi sau đó, cùng Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên, Quách Tấn, họ tách ra, tạo thành nhóm có tên Trường Thơ Loạn.
******
II. VỚI BÍCH KHÊ, THƠ LÀ NGƯỜI TÌNH, THƠ LÀ CUỘC ĐỜI CỦA ÔNG
Trong mười lăm năm ngắn ngủi, ông cho ra đời hai tập thơ Tinh Huyết và Tinh Hoa.
Nội cái tên của tập thơ thôi, cũng đủ thấy, cuộc đời của Bích Khê là dành hết cho thơ.
Trọn vẹn cho thơ.
Người ta thì còn học vị, gia đình, tình ái và một cuộc đời phiêu lãng. Bích Khê không may mắn như thế. Ông sớm nổi trôi và cũng sớm vướng vào một trong tứ chứng nan y, bệnh lao phổi.
Ông cũng có vài mối tình, nhưng so với thơ, thì những mối tình ấy dường như không đủ sức để ông dựa vào. Thơ mới chính là người tình của ông. Ông nương vào thơ để duy trì niềm vui. Ông ngả vào thơ để duy trì mạch sống.
Bao nhiêu máu huyết của ông, bao nhiêu những anh hoa phát tiết của ông, ông đều dâng hiến hết cho thơ. Mỗi bài thơ ông sáng tác, dường, đều là một hồ huyết lệ của ông.
Và chỉ trong một ít năm, cho thơ, vì thơ, ông đã dùng cạn sạch máu mình. Tôi nói điều này, không ngoa. Nếu khó tin, các bạn cứ làm cuộc phỏng vấn bỏ túi nho nhỏ, các bạn sẽ nghe những thú nhận thực lòng của những nhà thơ, nhà văn, sau một đêm viết bằng hết sức lực mình - tóc người viết có thể bạc trắng quá nửa đầu.
Huống hồ gì, Bích Khê bị bệnh phổi.
******
III. HOÀNG HOA - BÀI THƠ ĐỂ ĐỜI CỦA BÍCH KHÊ
Một trong bốn người của Bàn Thành Tứ Hữu, Chế Lan Viên, từng thâm trầm so sánh: “Bích Khê làm thơ, còn Hàn Mặc Tử bị thơ làm.”
Hoàng Hoa, là bài thơ hay, một trong ba bài tôi thích nhứt, do Bích Khê làm:
Chiều đi trên đồi êm như tơ
Chiều đi trong người êm như mơ
Lam nhung ô! Màu ngưng lưng trời,
Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi
Vàng phai nằm im ôm non gầy,
Chim Yên eo mình nương xương cây,
Đây mùa Hoàng Hoa, mùa Hoàng Hoa,
Đông nam mây đùn nơi thành xa
Oanh già theo Quyên: quên tin chàng!
Đào theo Phù Dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi
Theo chàng ta làm con chim Uyên
Làm mây theo chàng bên nhung yên
Chàng ơi! Hồn say trong mơ màng
- Hồn ta? Hay là hồn tình lang?
Bên kia, Hàm Dương; đây, Tiêu Tương,
Tơ lòng lên cao đây mành Dương!
Nay hoàng hôn rồi mai hôn hoàng
Trông gương buồn dơ cho dong nhan!
Non Yên tên bay ngang muôn đầu
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?
- Ai xây bờ oan trên xương người?!
- Ai xây mồ hoa chôn xuân tươi?!
(1939)
Hỏi thật các bạn, đọc xong, các bạn hiểu gì không?
Còn tôi, thú thiệt, và không mắc cỡ đâu, mặc dù tôi là cô giáo dạy văn, mặc dù, ngày còn đi học, tôi cảm thơ rất nhanh so với các bạn cùng lứa. Nhưng chịu. Đọc thơ Bích Khê, như bài này chẳng hạn, chịu. Nó thật sự khó hiểu với tôi.
Hoài Thanh, người đưa những Thi Nhân Việt Nam vào sách, cũng còn bị Bích Khê làm cho nghi ngờ chính mình, nghi ngờ khả năng thẩm định của mình: “Đã đọc không biết mấy chục lần, thấy trong đó những câu thơ đẹp, nhưng không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi nỗi niềm riêng của nó, hình như vẫn còn gì nữa.”
Vậy sao tôi lại nói thích? Hay, giống như câu chuyện hoàng đế cởi truồng, thấy ông vua ổng không mặc gì hết, mà đám nịnh thần vẫn cứ nhảy cẫng lên, vỗ tay, đồng thanh la, đẹp quá, sang quá, mà mình không la theo, nghĩa là mình, hoặc bị vua nổi giận chém chết, hoặc sẽ bị đánh giá, phàm phu tục tử, có mắt mà cũng như mù, nên đành phải tung hô cho giống với người ta?
Hay vì hai nhà phê bình văn học cây đa cây đề Hoài Thanh, Hoài Chân từng ngôn: “Bích Khê có những câu thơ hay nhất Việt Nam”, mà tôi phải nói thích theo, cho hợp thời, cho tỏ ra, ta đây cũng biết này biết nọ về thi ca?
Mặc dù, sâu xa, chẳng biết gì cả.
Xin thưa, không. Là tôi thích thật. Không vì ai. Không hùa theo ai.
Tôi thích, là vì, tuốt từ năm 1939, tức gần một trăm năm trước, gần một thế kỷ trước, đã có một nhà thơ, làm thơ, không theo ai, và cũng không giống ai.
Bài thơ Hoàng Hoa là một bài thơ bảy chữ, và tất cả các chữ trong bài thơ đều được viết, duy nhất, vần bằng - tức là gồm các chữ không dấu và các chữ có dấu huyền.
Mà không viết tầm bậy tầm bạ nha. Chữ cuối các câu một và hai, cùng vần với nhau. Chữ cuối các câu ba và tư, cùng vần với nhau, đều chằn chặn, từng cặp.
Chữ nào cũng đẹp.
Chữ nào cũng thơ.
Đọc lên, từ bác học đến nông dân, đều có thể ngay lập tức tấm tắc, đây chính là thơ.
Thế là cũng quá đủ, quá nhiều lý do để thích rồi. Cần chi hơn nữa.
Tuy là nói cần chi hơn nữa, nhưng đọc đi đọc lại bài, tôi vẫn cảm được: Hoàng Hoa là mùa, mùa của hoa, mùa của mây, mùa của lam, của xanh, của vàng. Là mùa ngóng trông, ngóng tin. Cũng là mùa của ngàn khơi, xa xôi, của phù dung, mơ màng, chóng tàn và không thật. Mùa của nỗi buồn, của xế bóng, của thâm khuê. Hoàng Hoa, phủ chụp lên thời gian và không gian, nên xuân cũng đành bị giam, nên xuân mới phải bị chôn.
Bài thơ như có một ma lực, chỉ cần đọc một lần, nghe một lần, là sẽ hỏi tới ngay, ai làm, làm vào lúc nào, tên bài thơ là gì, rồi về nhà, cứ như bị ám, tìm tòi hoài, nghi vấn hoài, cái ông tên rất giống người nữ, Bích Khê ấy, ổng có phải là yêu hồ, tu luyện thành người trong những chuyện liêu trai chí dị ngày xưa không, mà sao, thơ của ổng lại tuyệt bút đến vậy, mà sao, thơ của ổng lại cuốn hút mình đến vậy.
******
IV. BÍCH KHÊ - ANH HOA PHÁT TIẾT RA NGOÀI
Hàn Mặc Tử từng nhận xét về Bích Khê: “Là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ trở thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu.”
Nghĩa là, với thơ, và với cả đời sống mình nữa, Bích Khê không tả, Bích Khê chỉ gợi.
Nghĩa là, trong thơ, Bích Khê không khúc chiết, rõ ràng, Bích Khê là những đứt đoạn, mờ nghĩa, linh cảm và vô thức.
Nghê Thường
Ô trời hôm nay sao mà xanh
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành
Nhung mây tơ ngời sao kim cương
Dạ lan tê ngời say men hương
Lầu ai ánh gì như lưu ly
Nụ cười ai trắng như hoa lê
Thủy tinh ai để lòng gương hồ
Không gian xa cừ hay san hô
Đêm ôm hồn tôi chơi phiêu diêu
Bắt gặp nàng thơ diện yêu kiều
Man mác cho nên nhớ chị Hằng
Hai tôi nhịp nhàng lên cung trăng
Là ngọc thạch hay trân châu
Mã não hay là hổ phách đây
Cung thiềm vắt vẻo cài lên mây
Tiên nữ ra chào, tình ngây ngây
Này muôn ngọc nữ ngớp y thường
Tóc quyện bay mùi tô hợp hương
Uốn mình say lượn sóng xiêm nghê
Khúc Phụng Cầu Hoàng sôi đê mê
Diễm lệ, Hằng Nga bước xuống đền
Điệu ca thần diệu vẳng đưa lên
Chúng tôi lạc giữa mộng như ngà
Ngỡ vướng vào muôn tơ lụa sa
Hai tôi vừa ghé bến sông Ngân
Ô nàng Xuân Hương ngực để trần
Ngâm bài Vấn Nguyệt tiếng trong ngần
Nhìn xuống nhân gian cười như điên.
Đến bài này, dù chưa phải đã thực hiểu bài thơ muốn nói gì. Nhưng tôi vẫn nhận ra được, một cách dễ dàng, tài thơ của Bích Khê chính là đây.
Tôi nhận ra những thủ pháp nghệ thuật của ông, ví dụ như, trong ba câu đầu, ta thấy các cặp từ được ông dùng theo lối đối chọi nhau xanh - vàng; vàng - kim cương; trăng - sao: Ô trời hôm nay sao mà xanh! / Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành / Nhung mây tơ ngời sao kim cương.
Rồi, khổ thứ hai có bốn câu, thì cả bốn câu đều là câu hỏi, những câu hỏi rất hay và rất thông minh. Hay và thông minh là bởi vì đó là những câu hỏi đúng, hỏi mà không cần trả lời: Lầu ai ánh gì như lưu ly? / Nụ cười ai trắng như hoa lê? / Thủy tinh ai để lòng gương hồ? / Không gian xa cừ hay san hô?
Đặc biệt, Bích Khê rất tự cao. Khi làm thơ, ông bất chấp. Đừng hòng mà đặt ra các quy định hay phép tắc với ông. Ông viết thơ theo ý ông, mà không cần để ý rằng, bạn đọc có hiểu thơ mình hay không. Ông sáng tạo trong thơ rất nhiều từ mới, rất nhiều từ lạ, và cũng không thèm bận tâm, rằng, bạn đọc, đọc có hiểu hay không. Ví dụ như, “ngớp y thường”, “sôi đê mê”. Hay như trong bài Hoàng Hoa ở trên, “chim Yên”, “non Yên”, “mành Dương”.
Theo kiểu như là, muốn bước vào thơ ông, thì phải qua cửa nhà ông. Trong khu vườn thi ca ấy, ông trồng chữ gì, đó là quyền của ông, ông sử dụng chúng như thế nào, thì đó cũng là quyền của ông nốt.
Chuyện hiểu hay không là chuyện của bạn. Nhiệm vụ của ông đã hết. Ông chẳng cần phải giải thích hay phân bua, phân trần gì cả.
Bài thơ Nghê Thường, kể về một lần nằm mộng, ông cùng bạn ông ghé thăm cung trăng, và diện kiến một vẻ đẹp toàn bích, mà chỉ nhà trời mới có: những trăng vàng, những sao xanh, những hương dạ lan, lưu ly, hoa lê, xa cừ, san hô, ngọc thạch, trân châu, mã não, hổ phách cùng điệu múa bất hủ nghê thường với mùi hương tô hợp trên xiêm áo, với khúc phượng cầu hoàng đê mê.
Với Hằng Nga, với Xuân Hương, với tơ lụa ngọc ngà.
Và, với cả tiếng cười… điên!
Bích Khê có điên không? Hàn Mặc Tử có điên không? Ít nhiều gì, tôi nghĩ là có, trong những lúc hành thơ và bị thơ hành, chớ không phải điên trong tất cả thời gian sống của họ.
Những bậc tài hoa, anh hoa phát tiết, họ đều có chút “điên”. Hay nói một cách khác đi, “điên” ấy chính là những phút thăng hoa, hiếm hoi trong đời. Họ vượt ra khỏi mình, và những kỳ tích, thường, được tạo ra, lúc ấy.
Anh hoa mà phát tiết ra ngoài, tất, nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa (Truyện Kiều - Nguyễn Du).
Không chỉ tôi, mà tất cả những người yêu thơ Bích Khê, cả những nhà nghiên cứu, phê bình và thẩm định thơ, đều cho rằng, Tỳ Bà là bài thơ đặc sắc nhứt của Bích Khê.
Bài thơ này cũng được nhạc sĩ gạo cội Phạm Duy phổ thành ca khúc có cùng tên.
Tỳ Bà
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Cây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
Không chỉ màu sắc, mà cả âm thanh trong thơ Bích Khê cũng luôn luôn rất đặc biệt, khác thường, lạ lùng và độc đáo. Ví dụ như các bài thơ được viết, chỉ sử dụng duy nhứt một vần bằng, của ông.
Giống Hàn Mặc Tử, Bích Khê, trong thơ của mình cũng rất thích nói về trăng, luôn có ánh trăng. Điều đó khiến tôi liên tưởng, họ là những người ít ngủ, và thường làm thơ lúc về đêm. Trăng là âm. Mà âm nhiều quá thì sức khỏe sẽ suy. Thảo nào, mà cả hai nhà thơ tài hoa này, đều qua đời sớm vì bệnh nặng.
Ngay từ bốn câu đầu, Bích Khê đã sớm cho hiện diện bóng trăng: Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm / Trăng đan qua cành muôn tay êm / Mây nhung pha màu thu trên trời / Sương lam phơi màu thu muôn nơi.
Tôi để ý, màu lam, màu của lặng lẽ, phơn phớt buồn, cũng hay được Bích Khê sử dụng. Trong Tỳ Bà, màu lam chính là màu thu.
Và màu vàng nữa, màu vàng cũng là màu chủ đạo trong thơ của ông. Màu vàng hoàng hôn, màu vàng tà huy, màu của xế chiều, cuối ngày, hắt hiu, tàn lụi: Vàng sao nằm im trên hoa gầy / Tương tư người xưa thôi qua đây / Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề / Hoa vừa đưa hương gây đê mê.
Xin nhớ cho, vàng sao ở đây chẳng dính líu gì đến ngôi sao vàng năm cánh trên lá cờ. Vàng đây là màu của ánh trăng rọi xuống cánh hoa, cánh hoa gầy, tương tư, thương nhớ.
Không hề gượng ép, không hề khiên cưỡng, các từ đồng âm ở cuối câu, được chọn lọc, chắt lọc một cách tinh tế và nhuần nhuyễn, chứng tỏ “tay nghề” viết thơ, kỹ thuật làm thơ, cách sử dụng chữ của Bích Khê, đã lên đến hàng thượng thừa, có một khó hai: Cây đàn yêu đương làm bằng thơ / Cây đàn yêu đương run trong mơ / Hồn về trên môi kêu: em ơi / Thuyền hồn không đi lên chơi vơi.
Thông minh, cả dí dỏm, cả cười cợt nữa, khi có thể - cười mình, cười đời, cười tình - những nụ cười vừa ngô nghê, trẻ thơ vừa thấu hiểu mọi lẽ đất trời: Tôi qua tim nàng vay du dương / Tôi mang lên lầu lên cung Thương / Tôi không bao giờ thôi yêu nàng / Tình tang tôi nghe như tình lang.
Vay gì không vay, vay du dương. Vay du dương là bởi vì đời người được mấy lúc vui, được mấy lúc thơ, thế cho nên, mơ màng được lúc nào, mộng mị được lúc nào thì cứ hay thêm lúc ấy. Nên tiếng tình tang, biết chớ, nhưng cứ xem như tiếng gọi tình lang đi.
Vui mà.
Và cả chút đùa cợt, cả chút lả lơi, cả chút phóng túng, cũng nhân đó, đưa vào: Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi / Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi / Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi / Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi.
Sự tham lam của tình ái trong những lúc say mơ, trong những lúc nên thơ, làm sao kiềm chế, thế mới nên, lòng tôi, lấn lên đôi môi, để rồi đào nguyên.
Mà ngay cả khi, tìm ra, trong lòng nàng, Đào Nguyên, chữ thơ ông, khi viết về nhục cảm, cũng vẫn cứ thuần khiết, mỹ lệ và thanh tao một cách lạ thường.
Trăng không em là trăng thiu. Đêm không em là đêm hiu. Tài đến thế, tôi nghĩ, chỉ một Bích Khê. Duy nhất, một Bích Khê: Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu / Sao tôi không màng kêu: em yêu / Trăng nay không nàng như trăng thiu / Đêm nay không nàng như đêm hiu.
Thiếu nàng, thiếu em yêu, thì thu có đẹp mấy, trăng có vàng mấy, đêm có lung linh mấy, thì Bích Khê cũng không màng, xem kể bỏ, vứt đi.
******
VI. VÀNG RƠI! VÀNG RƠI: THU MÊNH MÔNG!
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
Nói thật lòng, người nào, chỉ cần trong đời viết được bốn câu như thế này thôi, thì cũng quá đủ, quá xứng đáng, để vinh danh họ là thi sĩ rồi.
Không phải hay mà là tuyệt hay. Từ tứ thơ, đến ý thơ, đến chữ thơ, đến màu sắc thơ, đến nhịp điệu thơ, đến nhạc tính thơ, tất tật, đều xứng đáng hàng tuyệt mỹ!
Buồn lưu, buồn sang; cây đào, cây tùng; hơi xuân, đông quân. Từng cặp, từng cặp, không thể thay vào gì khác. Nó phải như vậy và chỉ có thể là như vậy. Tất cả, không thể tìm được một sắp đặt khác. Nên mới gọi là, duy nhứt, Bích Khê.
Ô! hay buồn vương cây ngô đồng / Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông. Những thắc mắc, những câu hỏi, cứ lịm dần, lịm dần, và tan vào mênh mông của mùa thu, của tiếng đàn Tỳ Bà, hay tiếng đàn thơ, hay tiếng đàn mơ, cũng không cần biết nữa, vì yêu đương đang run rẩy từng hồi, theo cánh.
Vàng rơi, vàng rơi.
******
VII. SAU NGHÌN THU NỮA TRÊN TRẦN THẾ / HỒN VẪN VỀ TRONG BÓNG NGUYỆT SOI
Tuy cùng trong nhóm Trường Thơ Loạn với Chế Lan Viên, Quách Tấn, Yến Lan, Hàn Mặc Tử, nhưng Bích Khê sớm đã có lối đi riêng cho mình. Ông một mình một cõi, bay lên, tung hoành, hồn phách.
Nếu hỏi tôi, chỉ dùng một từ thôi, để nói về Bích Khê, thì tôi sẽ xin dùng từ: KỲ DỊ.
Kỳ đây nên hiểu là kỳ quái, kỳ diệu, kỳ tài. Còn dị đây nên hiểu là dị thường. Kỳ dị là lạ thường, phi thường và độc đáo.
Dị thường, và thậm chí, phi lý. Nhưng thích là thích thôi. Như yêu vậy. Ai hỏi, tại sao yêu. Chịu chết. Không trả lời được.
Yêu, là yêu thôi.
Bích Khê, chỉ ông mới có những dòng thơ kỳ dị và chói sáng, cuồng nhiệt và mênh mông, du dương và bí hiểm, trực giác và tượng trưng, thiêng liêng và man dại, lãng mạn và siêu thực.
Lịch sử thi đàn sẽ không có một Bích Khê thứ hai, như lời tiên tri trước khi mất của ông:
Sau nghìn thu nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi.
(Lời Tuyệt Mệnh)
Sài Gòn 05.05.2025
Phạm Hiền Mây
******
P/S: Trong bài Trả Lời Của Người Yêu (Thâm Tâm), dài mười sáu khổ, chỉ có khổ thứ ba - “hồn tôi lờ mờ sương khuya” và khổ thứ bảy - “đàn xưa từ chia đường tơ”, là được viết theo lối dùng toàn vần bằng, vậy mà cũng đã làm cho toàn bài thơ trở nên đặc biệt hơn, sự phá cách làm giai điệu hoài cổ hơn, nhấn nhá hơn, ngân nga hơn, ngồ ngộ, hay phết.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.