TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
GIỚI THIỆU TRANG THƠ CỦA CHI LAN
GIỚI THIỆU TRANG THƠ CỦA CHI LAN
Thú thật, lâu nay làm biên tập thơ, thơ nhận thì nhiều, nhưng thơ hay lại hiếm. Có người thì thơ gửi ý theo những hình thức cũ, thi pháp cũ; lại có người cố nống thơ lên để gọi là cách tân hiện đại, nhưng đọc hoài chỉ có câu chữ rối rắm mà chẳng thấy ý tình. Tôi nhận được hai bài thơ Lục bát khiêm tốn của Chi Lan - Cô Thợ may ở vùng quê Quan họ. Lục bát truyền thống mà đắm tình, mà đầy trăn trở với những hình ảnh thơ, câu từ thơ tươi mới. Thấy thích, tôi bèn yêu cầu Chi Lan gửi thêm cho ba bài nữa để: trước là thăm dò “năng lượng thơ” , sau là để đủ cảm thông viết vài dòng gọi là giới thiệu. Cũng lại bất ngờ vì hình như 3 bài sau lại hay hơn 2 bài trước, trong đó có một bài Ngũ ngôn. Vậy là 4 bài Lục bát, 1 bài Ngũ ngôn. Hình thức thơ đậm tính truyền thống nhưng hồn thơ thì thật tươi mới cho dù, đó là sự tươi mới của nỗi đau đời, đau tình, đau thân phận:
Em về nhuộm tóc màu mây
Gió tung áo mớ gói đầy nhớ nhung
Làn môi sót nếp thẹn thùng
Day màu chỉ, ngắm sương chùng bến xa…
Đó còn là cái tươi mới của cả nỗi sầu cay. Nỗi sầu là thiên thu vạn cổ vẫn muôn đời, muôn thuở đó thôi, vậy mà nỗi sầu trong thơ Chi Lan khiến người đọc Công nghiệp hóa thế kỷ 21 vẫn cứ ngỡ ngàng:
Câu thơ nào biết bạc đầu
Mà thành già cỗi miết sầu vào tim…
Cái cây “Cải ngồng” vô duyên, vô phận, vô ích có mặt trên khắp những mảnh vườn Việt Nam chứ có xa lạ gì đâu, vậy mà Chi Lan vận vào người, vận vào duyên, “bó” thành thơ (không phải bó cải vì cải ngồng thì vứt đi chứ bó để làm gì nữa đâu!), đọc lên nghe đau nhói vì Chi Lan gói cái tình duyên muộn màng, lỡ lứa, qua thì ra chợ cho dù tiên lượng có mang đi cũng chẳng ai mua:
Cải ngồng, em gói hết rồi
Có mang ra chợ chẳng người nào mua!...
Hình ảnh con sông Cầu lại chảy theo thể thơ Lục bát, đọc lên cứ thấy hồn vía quê hương, dân tộc phảng phất, vương vương một chút ca dao, vấn vít nhịp câu Quan họ… Bốn câu Lục bát sau đây có hai chữ “đèo” vậy mà sự trùng thanh (âm) theo kiểu âm nhạc này lại mang đến một thú vị rất riêng vì nghĩa của hai “đèo” hoàn toàn cách biệt (một danh từ và một tính động từ) khiến câu thơ duyên dáng hẳn lên và âm vang chiều sâu cũng rất lắng:
Câu quan họ nhuốm lời yêu
Biết đâu cạn biển nghiêng đèo mà mong
Đành thôi em dối với lòng
Cho Người khỏi vướng đèo bòng đa mang
Tôi muốn nói: Lục bát Chi Lan nhuyễn về cấu tứ, vần điệu, không bị gượng ép. Nhịp Lục bát vẫn theo truyền thống, nhiều câu đệm có vẻ hơi một chút sáo mòn (dù chẳng giống ai), nhưng trong mỗi bài đều có những câu, đoạn hay, thấm thía, níu được xúc cảm của người đọc. Với Lục bát, như vậy là đã quá thành công (Vì Lục bát mà chỉ có những câu đệm suông sẻ về vần thì có lẽ, ai cũng làm thơ được). Lục bát Chi Lan sáng lên những câu thơ tuyệt đẹp, ví như hai câu sau của 4 câu Lục bát này:
Thôi người giữ lại mùa xuân
Bên hàng hiên cũ còn vương ánh đào
Em về gội tóc cầu ao
Ngắm hoa cúc nở vàng thao thức chiều.
Gieo vần Lục bát mà gieo vào giữa của một từ “láy hai – thao thức” là cái dáng của Lục bát hiện đại vậy.
Bài Ngũ ngôn lại đạt được cái huyền diệu của một thể thơ kiệm chữ trong từng câu. Thơ Ngũ ngôn, một ý thường bị cắt thành nhiều dòng (vì mỗi dòng chỉ có 5 chữ) nên đọc lên dễ bị ngắt ngứ, vậy mà bài Ngũ ngôn của Chi Lan nhẹ nhàng và bước thơ uyển chuyển cuốn người đọc bằng những tứ thơ hay và vốn từ mới:
Có dòng sông cô đơn
Chảy hoài trong tâm tưởng
Muốn tìm ra biển lớn
Mà quanh co bóng chiều.
Dòng sông cô đơn chảy trong quanh co ấy cho dù tứ không mới, nhưng đọc vẫn thấy lạ và thích vì cái “hợp lý” giữa ý và tình.
Anh về nơi xa xôi
Mịt mù sau mây khói
Cỗ xe đời không mỏi
Kéo nỗi buồn trăm năm
Hai câu cuối của khổ thơ này là những câu Ngũ ngôn đáng được đọc.
Tóm lại, thơ Chi Lan buồn, nhiều tâm trạng của một người có lẽ đã đi qua nhiều bất hạnh cuộc đời. Nhưng thơ Chi Lan cũng không bi quan mà luôn “tươi” và “sáng” chảy một dáng riêng giữa dòng đời “vui ít hơn buồn”:
Trăng hoài hát khúc cô liêu
Gửi vào sương khói lời yêu tím bầm
Chia tay tưởng đã mấy lần
May rằng trước ngõ mùa xuân hãy còn!
Bichkhe.org xin giới thiệu 5 bài thơ của Chi Lan với bạn đọc trong và ngoài nước (TS Mai Bá Ấn).
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.