TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
SINH THÁI - ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
SINH THÁI - ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
Đặng Hà
Vấn đề sinh thái-đô thị xuất hiện trên những trang văn của Nguyễn Minh Châu ngay từ những năm 80-90 của thế kỉ trước. Ông được coi như nhà văn đặt nền móng cho văn học đổi mới, có lẽ, một phần là bởi, trong các sáng tác của mình, ông đã lần đầu tiên đặt ra những cuộc đối thoại với tự nhiên, lắng nghe tiếng nói của tự nhiên.
Không phải là từ vị thế của kẻ thống trị, cũng không phải là tình yêu thiên nhiên theo cách “nhân tính hóa” nó, phú cho nó các hình thái cảm xúc suy nghĩ của con người. Ngược lại, với Sống mãi với cây xanh, ông đã viết về một “tự nhiên” có khả năng đối thoại, có tiếng nói “khác” của riêng mình. Nó vẫn không ngừng cất tiếng nói với chúng ta từng giây từng phút, chỉ có điều con người đã dần đánh mất đi trong mình khả năng thấu hiểu.
Việt Nam, bắt đầu từ những năm 1990, đã thực sự bước vào vòng xoáy khó kiểm soát của tiến trình đô thị hoá. Giống như những gì nhà phê bình sinh thái Karen Thornber (Karen Thornber: chuyên gia về Phê bình sinh thái, GS. Đại học Havard. Bà đã từng sang Việt Nam và có buổi thuyết giảng giới thiệu về Ecocriticism tại Viện Văn học vào tháng 4, 2011) nhận định về các quốc gia châu Á khác, suốt một thời gian dài, hình ảnh những ống khói nhà máy được coi như là “dấu hiệu biểu thị sự thịnh vượng quốc gia”, và “công nghiệp hoá” đã trở thành một huyền thoại được ca tụng. Trong các diễn ngôn về chính sách phát triển, “con người hầu như không hề tự nhìn thấy rằng chính mình là một yếu tố đang huỷ diệt môi trường”. Và “khi sự phá huỷ môi trường trở nên nghiêm trọng hơn, lan rộng thêm, thái độ tương đối lãnh đạm này” nhiều khi lại được thay thế một cách sai lầm bằng niềm xác tín mang bóng dáng “thực dân kiểu mới” theo mô hình “chữ U ngược” của phương Tây, vẫn cho rằng “những môi trường tàn lụi chính là cái giá cần thiết phải trả cho sự tăng trưởng nhanh chóng và bền vững”.
Không quá sắc nét, nhưng có thể thấy, trong văn học đương đại Việt Nam, đô thị dần dần đã trở thành một không gian sinh tồn ám ảnh. Tuy nhiên, người ta vừa sống trong nó, vừa nỗ lực tìm đường đến với nó, lại cũng vừa chối bỏ nó. Những thành phố (đang phát triển theo hướng hiện đại) không chỉ là trung tâm của sức quyến rũ mới về kinh tế-chính trị, mà còn là nơi chốn làm nảy sinh những chấn thương mới, những “nỗi âu lo” và sự khủng hoảng mới về nhân tính. Với một cảm quan sinh thái nhất định, nhiều tác phẩm về đề tài đô thị đã bước đầu nhận ra bên dưới mọi bất an tâm lí-xã hội này một sự bất ổn nghiêm trọng hơn trong quan hệ giữa con người với môi trường sống xung quanh. Đúng như Foucault từng nói: “Người ta vẫn còn phải viết toàn bộ lịch sử về các không gian - đồng thời cũng sẽ là lịch sử của quyền lực”, “lịch sử” của quá trình đô thị hoá được viết nên bằng những xung đột quyền lực xã hội (sự chênh lệch giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp, hiện tượng di cư...), và ở một tầng sâu hơn nữa, là sự tranh giành quyền lực với thế giới tự nhiên, “bức tử” hệ sinh thái dưới danh nghĩa “sự phát triển”.
Văn học tiếp cận sự đứt gãy trong quan hệ với tự nhiên này theo cách riêng của mình, bắt đầu bằng việc miêu tả trực tiếp những trạng huống sống cụ thể, những trải nghiệm vật lí/tâm lí của con người khi đối diện với một cảnh quan đã - đang - hay sẽ - được - đô - thị - hoá. Trong văn học Việt Nam đương đại, có thể coi các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là những “dự cảm” đầu tiên về mối quan hệ càng lúc càng trở nên “xa lạ hoá” của con người đô thị với thế giới tự nhiên. Thế nhưng, trong tác phẩm của ông không đơn thuần chỉ có những tiếng nói phủ định và chối bỏ. Chứng kiến sự chuyển mình mang tính bước ngoặt theo hướng hiện đại hoá của đời sống xã hội, Nguyễn Minh Châu đã có được sự nhạy cảm thực sự khi nắm bắt được những khát vọng xây dựng và đổi mới của một lớp người hậu chiến, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chưa thành hình, nhưng niềm hi vọng, lòng mong ước về một sự đổi thay mang quy mô đô thị đã dần dần được kiến tạo, thay thế cho tư duy “phát triển” cũ của một xã hội nông nghiệp trước đó. Có thể xem Sống mãi với cây xanh như là một minh chứng rõ nét.
Mối quan tâm tác giả muốn đặt ra, như ông nói, chính là vấn đề “thành thị hiện đại và thiên nhiên” [tr365]. Tác phẩm trước hết kéo trí tưởng tượng của người đọc vào lịch sử, nhắc lại với chúng ta rằng, sự xuất hiện của không gian đô thị, không gì khác, là hệ quả lâu dài của một quá trình chinh phục tự nhiên: “Đúng, đời sống loài người là một chuỗi dài quá trình chinh phục thiên nhiên”. Thế nhưng, “thật là thiếu thỏa đáng, và thậm chí nguy hiểm nếu không nghĩ đến công việc hòa hợp với thiên nhiên: Từ giữa phố phường chật hẹp đông đúc có bao giờ các bạn đi ra sông Hồng nghe tiếng hát của phù sa và bờ bãi? Đã bao giờ các bạn dừng bước trên hè phố nâng một cành cây bị gẫy? Có phải tình yêu của các bạn được e ấp nói lên trong màu xanh của hàng cây? Và nhất là tuổi thơ, hãy trả lại cho tuổi thơ những nội cỏ và bóng râm mát của cổ thụ, quả sấu giằm và cảm giác đi trong rừng” [tr366]. Nghĩa là, tự nhiên là cái nôi nâng đỡ và xoa dịu con người, là nơi ươm mầm những tình cảm đẹp đẽ nhất, thánh thiện nhất.
Bởi lẽ đó mà bác Thông trong truyện, không thể hình dung nổi đến một ngày, những “mảnh sinh thái” nhỏ bé ấy sẽ bị triệt hạ để phục tùng cho tham vọng về một thủ đô hiện đại hơn nữa. Ngay chính Huân, chàng trai trẻ Sài Gòn giàu nhiệt huyết đại diện cho lí tưởng thay đổi, cũng không thể lường trước được rằng: Sự dung hòa giữa không gian đô thị với môi trường sinh thái, thực chất, là vấn đề nan giải đến mức nào. Là một kĩ sư xây dựng đam mê các kiểu cách kiến trúc đô thị, ngay khi vừa đặt chân đến Hà Nội, anh đã nuôi trong mình một niềm tin đầy “lãng mạn”: “Hà Nội phải đổi khác, Hà Nội vừa xanh ngắt cây cối vừa vươn cao lên bằng những ngôi nhà chọc trời nhưng vẫn không mất vẻ hài hòa với phần kiến trúc Hà Nội cũ” [tr396]. Anh ấp ủ ý tưởng về một “công trình thuộc thời vị lai” hứa hẹn bao nhiêu điều “to tát” và “vui vẻ”. Thế nhưng, Nguyễn Minh Châu đã linh cảm thấy vô số điều bất ổn trong những dự án xây dựng như thế. Đó là bởi, việc vừa gìn giữ mối quan hệ chung sống hài hòa với tự nhiên, vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế, là một điều quá khó, nếu không muốn nói là không tưởng. Môi trường tự nhiên quá khó để giành đất sống, chứ chưa nói đến khả năng tồn tại mạnh mẽ trong không gian của những “tòa nhà chọc trời”. Không chỉ thế, những dự án quy hoạch này được đề xuất bởi một con người tài năng, giàu niềm tin tưởng, đã đi khắp năm châu bốn bể để học hỏi; thế nhưng, lại không có được một độ lùi cần thiết về thời gian để thấu hiểu đời sống con người và vùng đất nơi đây. Bản vẽ của Huân được duyệt, rồi được thực thi khá giống với những gì trước đó anh mường tượng: “Khu phố xây dựng thí điểm đã mọc lên. Nó gợi lên phong vị hiện đại của một thành phố công nghiệp châu Âu. Một đại lộ rộng và thẳng tắp chạy dài suốt giữa ruột phố...” [tr418]. Nhưng dù thế nào, sự xáo trộn trong cuộc sống những con người nơi đây, nỗi đau của những người đã có bao kỉ niệm gắn bó với khoảng trời cũ, không gian cũ, là điều mà một “người khách qua đường” như anh không thể đoán trước: “Cái người khách đã hi sinh ấy đã mó đến đời ông lão. Cái giường đang nằm tự nhiên không nằm trong nhà mà đang nằm chềnh ềnh ngay giữa đường, thạp gạo và chiếc đèn dầu hoả cũng vậy. Trời đất hỡi, hắn đến đây làm gì, bày vẽ ra những đổi thay này làm gì? Để đến nông nỗi cả cái gian nhà này của ông cũng chẳng còn nữa. Ông ngước mắt nhìn lên trần ngắm những phiến rui mè đầy bụi bặm đang văng vẳng phát thanh tiếng cả một bầy mọt đang trèo trẹo nghiến gỗ - mà thậm chí nghĩ đến rằng ngày mai không còn được nghe nữa, ông lão đã thấy như đổ ập vào đời mình những phiến buồn hiu quạnh” [tr413].
Huân gắn bó quá ít ỏi với mảnh đất anh mong muốn và tham gia đổi thay, xây dựng lại. Dự án ấy cũng chỉ để thoả mãn cái ý thích nhất thời của một con người nhiều lãng mạn, thiếu thực tế. Huân vẽ ra vô số ý tưởng, nhưng vì chiến tranh, anh không có được cơ hội chứng kiến việc các bản thiết kế ấy đang được “hiện thực hoá” như thế nào trong hiện tại: Một cái cây phải hạ xuống để một trạm bơm xăng mọc lên, hệ thống đường sá và nhà cửa càng lúc càng thu hẹp, tước đoạt dần không gian tồn tại của tự nhiên, vô số cây cối bị đốn ngã nhằm lấp đầy sự tiện nghi bên trong những toà nhà sang trọng. Như thế, đi cùng với đô thị hoá không phải là lối sống hài hoà, mà là một cơn sốt khai thác: “Công việc khai thác bây giờ đột xuất trở nên lớn lắm”; “không phải mình bác mà nhiều người làm ở vườn ươm đã được chuyển sang công việc khai thác, đúng như lời giám đốc nói, khai thác bây giờ trở nên đột xuất to lớn”; “bao nhiêu nhà cửa trở nên khang trang, bàn ghế, xa lông, tủ kê chật trong nhà cũng vì được làm cái công việc béo bở: khai thác gỗ ngay trong thành phố!” [tr410]. Và một khi con người đã biến tự nhiên thành công cụ, nhìn tự nhiên bằng cái nhìn lợi ích, người ta sẽ rất khó để quay đầu lại, nhận thức lại. Cái lợi vật chất, dù thế nào, vẫn quyến rũ hơn cả, và đủ sức phá huỷ sự gắn kết thân thiết giữa con người và tự nhiên nhanh hơn cả. Những trang viết của Nguyễn Minh Châu cho thấy sự nhạy cảm của ông trước sự bội phản quá nhanh ấy của con người: “Họ đang chuẩn bị cưa ngắn những cành quá dài lâu nay vẫn từng đổ bóng mát xuống tận lòng đường. Họ đang om sòm thảo luận về việc nên hạ mấy cành lớn xuống theo cách nào để không xảy ra tai nạn, không làm sập mái nhà”; “nhà nào nhà nấy đã chất lù lù một đống củi cành sấu. Thật là một cuộc yến tiệc cho cả thiên hạ” [tr412]. Những chi tiết ấy thể hiện rõ nét sự ích kỉ của con người. Và còn đau lòng hơn: “Chỉ còn một cái thân cây gỗ tươi trụi thui lủi. Kẻ được hưởng bóng mát nhiều nhất là lũ trẻ phố chợ và gia đình mấy hàng phở quanh ngã tư vừa nghe tin hạ cây sấu, lập tức xông vào lột da nó, như lột da một con bò ở lò sát sinh. Cây sấu vẫn đứng thẳng với một cái thân cây đã bị lột vỏ đang ứa nhựa, ở những khoảng vỏ mới bị lột nom đỏ hỏn như da đứa trẻ sơ sinh...” [tr414]. Mượn cái nhìn của bác Thông, Nguyễn Minh Châu đã miêu tả hết sức sinh động cảnh tàn sát thương tâm cây sấu già. Cái cây vô tội bỗng chốc đã hiện lên như một thi thể bị hành quyết. Những so sánh liên tiếp vừa khắc họa cây sấu như một sinh thể sống, vừa cho thấy sự vô tình tàn nhẫn của con người. Trước những món lợi vật chất trước mắt, chúng ta dễ dàng đánh mất đi khả năng giao cảm với tự nhiên, cũng có nghĩa, dễ dàng đánh mất đi cảm giác về chính mình như là một phần “da thịt của thế giới” (“flesh of the world”, Maurice Merleau-Ponty). Giao cảm ấy không cần đến lí trí, không cần đến thứ ngôn ngữ khác biệt mà con người tự tạo ra cho mình, cũng không viện đến những huyền thoại văn hoá. Nó đơn giản chỉ là sự dự phần một cách vật lí nhất của những cảm giác thân thể: “Cây sấu vẫn bình thản mà ông lão thấy đau, y như sắp phải đứng để người ta cưa tay cưa chân mình. Rồi bỗng tiếng cưa máy cứ xoèn xoẹt cứa vào thịt da ông lão”; ông “không còn đủ can đảm nhìn cái phần xương thịt đẽo ra từ cơ thể sống của một người thân yêu”; “kiệt sức vì đau đớn và cô độc, ông lão như một cái cây cổ thụ trăm tuổi đang sắp ngã xuống mặt đất” [tr416].
Tuy nhiên, trong một đô thị càng lúc càng hiện đại hoá, trong một không gian càng lúc càng dung chứa lòng tham vô độ của con người, những ai còn giữ được bản tính hồn nhiên “lẩm cẩm” như bác Thông thật quá hiếm hoi. Cây sấu im lặng, chết cái chết của một vị Thánh đã từng chở che con người, và giờ đây, bị chính họ phản trắc. Rễ cây bật lên như một câu hỏi không lời chất vấn lại những hành động bạo tàn nhân danh văn hoá, văn minh: “Nhìn khoảng đất rỗng trùng sâu xuống quanh cây sấu và đống đất đào lên, người ta bất giác giật mình được bất giác tận mắt chứng kiến cái tầng đất văn hoá của con người – nó cũng chẳng lấy gì làm dày lắm” [tr414]. Văn hoá, như thế, nảy sinh từ tự nhiên, được tự nhiên nuôi dưỡng. So với sự vĩ đại vô thuỷ vô chung của thiên nhiên, của trái đất, nó nhỏ bé và mỏng manh đến thảm hại. Mặt khác, văn hoá lại cũng chính là tấm áo choàng hư nguỵ mà chúng ta không ngừng che đậy tự nhiên nhằm thoả mãn sự khoe khoang về quyền năng thống trị của loài người cùng với vô số lợi ích thực dụng mà địa vị ấy mang lại.
Chưa hẳn là một tuyên ngôn, nhưng qua Sống mãi với cây xanh, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện những suy tư có tầm về mối quan hệ giữa nghệ thuật, thời đại, và môi trường sinh thái. Văn học nói riêng hay nghệ thuật nói chung, đúng như Jonathan Bate nói, có thể lựa chọn cho mình một lối đi khác với diễn ngôn thống trị, phản biện lại ngôn ngữ và văn hoá, để “làm nhiệm vụ tái kết nối chúng ta với thế giới”. Hay Heidegger, trong The Question Concerning Technology (Câu hỏi về Công nghệ), cũng đã nói về nhiệm vụ mới của thơ ca trong việc “nhắc nhở và duy trì một mối quan hệ phi công cụ (non-instrumental relationship) với thế giới”. Qua các tác phẩm của mình, Nguyễn Minh Châu đã thực sự làm được điều ấy trong văn học. Nghệ thuật, với ông, không phải là địa hạt của tư duy thực dụng trước tự nhiên. Nó gần gũi hơn cả với “bản năng giao hoà với muôn loài”, với cái nhìn nguyên thuỷ, trẻ thơ về thế giới: “Con người không có một chút học thức, văn hoá ấy (bác Thông) – như sau một làn sương lờ mờ - chỉ bằng bản năng giao hoà với muôn loài, đã mò mẫm để đi gần thấu đến cõi huyền diệu của nghệ thuật” [tr374].
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.