TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
THƠ CÁCH TÂN VÀ THI PHÁP NGHỆ THUẬT MỚI - KÌ 4
THƠ CÁCH TÂN VÀ THI PHÁP NGHỆ THUẬT MỚI - KÌ 4
Nguyễn Vũ Tiềm
IV. BỐN DÒNG CHẢY CỦA THƠ CÁCH TÂN
Như phần một đã nói: Thơ cách tân Việt Nam là một mạch nguồn chuyển động không ngừng. Nhất là từ khi đất nước đổi mới cùng với thời điểm đặc biệt: TK XX chuyển sang TK XXI, những đợt sóng thơ cách tân lúc này mới thực sự có một không gian rộng mở để mặc sức tung mình lên phô bày trăm vẻ lộng lẫy trong ánh sáng đổi mới và hội nhập. Nhìn vào thực tế đó, ta thấy gì? Khuynh hướng ư? Ai bảo không có? Trào lưu ư? Đương nhiên rồi! Trường phái ư? Thấp thoáng đâu đây!
Quan sát trên hai thập kỷ, trước sự sôi động và sầm uất, không khó khăn lắm cũng nhận ra bốn dòng chảy trẻ trung và lực lưỡng của thơ cách tân:
1. Hiện thực đa chiều & huyền ảo.
Trong một cuộc hội thảo thơ, một nhà thơ trẻ nói rằng hiện thực vốn đã tồn tại rồi, lại để nó tồn tại y như thế trong tác phẩm nữa thì thật vô duyên. Có lẽ nhà thơ này tâm đắc với câu nói tương tự của nhà thơ Pháp Stéphane Mallarmé. Nhiều nhà thơ trẻ thích tạo ra hiện thực với nhiều khúc xạ đời sống vốn đa đoan và nhiều thứ “đa” khác trong tác phẩm của mình. Giật mình nhớ lại, quả thật không ít bài thơ phản ánh hiện thực như chụp ảnh, đơn giản và đơn điệu đến phát chán. Sang thế kỷ XXI phải thay đổi là điều bức thiết lắm.
Về thi pháp, các nhà thơ bắt đầu có ý thức tương đối rõ về việc huy động những khả năng tiềm ẩn của con người mà bấy lâu nay bị lãng quên như khả năng trực giác, linh giác, ảo giác… Và họ không chỉ phát huy tối đa tri thức mà cả tâm thức, tiềm thức,siêu thức, vô thức – kho báu giàu có mà bấy lâu nay ta để quên trong sự nghèo khó triền miên.
Có thể nói tập thơ“Sự mất ngủ của lửa” của Nguyễn Quang Thiều đã làm cho không ít người mất ngủ vì chất giọng, chất thơ quá lạ lùng. Tập thơ được giải thưởng Hội Nhà Văn năm 1993 gây nhiều ì xèo, ầm ĩ. Nguyễn Quang Thiều liên tiếp cho ra đời những tập thơ “sinh sự” với độc giả nhiều hơn; tranh cãi nảy lửa, càng tranh cãi, càng thấy thơ anh có từ trường. Thử trích tình cờ trong một số bài của Nguyễn Quang Thiều:
“Rượu câm lặng chở những linh hồn rắn
Có một kẻ say hát lên bằng nọc độc trong mình”;
“Ngước lên linh hồn những hồ nước bị giết đang bay lượn tìm nơi hạ cánh”.
“Sông không an ủi nổi tôi, đò dọc, đò ngang mái chèo đang bó bột”.
“Tổ tiên tôi thức quá lâu, tôi lại ngủ quá lâu
Trong trầm vọng kèn hơi những họng người đã rách”.
“Những ngọn bí đen không lá bò kín vầng trán hói của cơn mê
Tôi khóc những người đàn bà quảy hai chiếc sọt vừa đi vừa mơ nấm mộ của mình”…
Thơ Nguyễn Quang Thiều nhiều bài không dễ đọc bởi anh đã sớm nhận ra và dứt khoát từ bỏ lối mòn quen thuộc đầy những diễn ngâm du dương êm mượt đến nhàm chán để chọn cho mình lối đi riêng. Và, chính tại đây, những trầm tích của tiếng Việt cựa mình bừng thức rồi cất lên một trường giọng lạ lùng trong tiếng thơ ngỡ ngàng chưa từng có khiến thi đàn lâu lâu lại rùng rùng ít nhiều độ rích-te.
Một số người cho thơ Nguyễn Quang Thiều du nhập từ nơi nào xa lạ, nhưng đọc kỹ mới thấy thơ anh thấm đẫm chất đồng quê Việt, những bài: “Nhịp điệu châu thổ”, “Lễ tạ”, “Trong quán rượu rắn”, “Linh hồn những con bò”, “Tôi khóc những cánh đồng rau khúc”, “Những người đàn bà gánh nước sông”… Nhà thơ như một anh trai cày, vạm vỡ một cách u buồn và mạnh mẽ trong đau đớn:
“Máu tôi chảy lâm râm trên đất
Trên mặt người, trên mặt những câu thơ
Ôi dòng máu cũng thác ghềnh vực xoáy
Có cánh buồm trôi trên dòng máu đỏ ngầu
Bến bờ ở đâu trên dòng sông mặn ấy
Em xa tôi gội tóc xuống đau buồn”…
Một số tác giả khác:
“Chiều có thể nghiêng, mưa có thể buông, đá có thể khóc...
... Nhổ khóm hoa vàng để mà được vục vào với bụi, với phân, với đất
Gió ợ mùi chua, tình đã dậy men, đất hình như mặn”
Lãng Thanh
“Tôi theo bày trẻ ra đi
Những mái nhà tranh nằm xõa tóc
Những con cá ngàn năm hát ao chuôm
Gào lên con gà trống chín đầu đỏ rực
Mặt trời giật mình không biết mọc phương nao
Và cuộc sống thêm một lần non nớt”
Nguyễn Quyến
“Khi mọi người mang lửa đến
Chúng tôi mới nhận ra trong mình có mỡ bò, cừu, parafin hay dầu lạc
Và chúng tôi có thể cháy sáng
với cùng một ngọn lửa”
Đỗ Doãn Phương
Thoát bóng nữ thần
cởi xiêm áo cung đình chật
em chân trần làm tình nhân mặt đất
múa vũ điệu con người”;
“Thế kỷ nhiều giấc mơ sinh nở nhiều giấc mơ khô héo
nhiều giấc mơ
bị chối từ”
Kiều Maily
Đọc Nguyễn Quang Thiều và những tác giả trong dòng thơ này, không khỏi liên tưởng (chứ không phải so sánh) đến dòng văn học hiện thực huyền ảo từ Châu Mỹ Latinh đã tàng hình trở lại rồi ẵm luôn giải Nobel danh giá. Đó là cuốn “Trăm năm cô đơn” của Garcia Marquez. Lại nhớ câu thơ máu lửa của nhà thơ vùng tân thế giới này, Octavio Paz: “Đồng tiền liếm khô máu thế gian”, thơ cách tân VN không hiếm câu ngang ngửa.
Trên bức tranh hiện thực đa chiều này âm vang một dòng ngôn ngữ khác - ngôn ngữ tiềm thức, tiên cảm - song song cộng hưởng với ngôn ngữ thơ mặc dù nhiều khi bặm trợn, hầm hố; một hiện thực khác ánh chiếu linh ảnh từ huyền thoại, huyền sử tương phản với cái thực dụng, phù phiếm hàng ngày.
Ở dòng thơ hiện thực đa chiều và huyền ảo, thường hay xuất hiện nhiều hình ảnh mộng mị, hoang dã đầy thôi miên, tạo ra những ám thị và ám ảnh; tĩnh tâm suy ngẫm thì đó chính là hành trình đi tới sự huyền linh của các giá trị cuộc sống được cảm nhận bằng giác quan thứ sáu (còn gì buồn tẻ bằng cuộc đời chỉ thuần những thứ cảm nhận bằng năm giác quan thông thường mà thôi). Dù gọi là gì thì đó cũng là vẻ đẹp kỳ ảo pha màu bí ẩn làm cho cuộc sống này phong phú đa diện đa chiều hơn, có ý nghĩa và đáng sống hơn.
2. Phản biện, dự báo & thức tỉnh.
Khái niệm này mới được nhen nhóm từ cuối thập niên 80 thế kỷ trước khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới và rõ nét dần trong quá trình dân chủ hóa xã hội. Thế hệ nhà văn của đầu thế kỷ XXI tiếp nhận hồn nhiên hơn lớp cha anh, nhưng nói chung, tất cả đều nhìn trước nhìn sau và trông nhau dè dặt.
Tính hoài nghi khoa học giúp họ có cái nhìn sâu hơn và sắc sảo trong chức năng phản biện (kể cả phản biện chính mình),dự báo, và thức tỉnh lương tri.
Trong bài “Sự phẫn nộ của nhà văn”, báo Văn Nghệ số 49 – 2006, Đào Ngọc Đệ viết:
“Sự thật thì, đã có một thời gian quá dài, chúng ta chỉ quen nhìn một chiều, cảm một chiều, nghĩ một chiều. Không có phản biện xã hội, phản biện tư tưởng. Cái “một chiều” đó chỉ toàn là cái tốt đẹp, cái suôn sẻ - nhiều khi lại được khuếch đại, hoặc do tưởng tượng ra. Dường như con người, sự vật, hiện tượng không có mâu thuẫn nội tại, gay gắt, cuộc sống toàn màu hồng. Ai làm ngược lại thì bị đánh dấu hỏi, bị thành kiến. Đó là điều cực kỳ nguy hại cho sáng tạo văn chương”.
Quả thật, suy nghĩ cho thấu đáo thì phản biện, dự báo & thức tỉnh mới là thiên chức cao nhất của người nghệ sĩ và cũng là khó và nguy hiểm nhất. (Xem lại văn học sử thế giới, không ít nhà thơ không giữ nổi cái thủ cấp của mình). Nên nó đòi hỏi người nghệ sĩ, ngoài tài năng ra, phải có tâm, có tầm và bản lĩnh. Thực hiện thiên chức này, các nhà thơ thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật tự trào. Tự trào có ưu thế đặc biệt dễ gây ấn tượng và ám ảnh mạnh. Tự chửi mình như Tú Xương:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Ngày nay kiếm đâu ra người có thực lòng với vợ đến như thế?
Tự trào từng thịnh hành trong trào lưu Hiện thực phê phán, nhưng đến Văn học Cách mạng 1945 thì vắng bóng, mãi đến thời kỳ đổi mới cuối thập niên 80 thế kỷ XX mới bắt đầu trở lại nhưng còn rụt rè. Mới chỉ thấy ở Chế Lan Viên trong “Di cảo” và quyết liệt hơn ở Nguyễn Đình Thi trong bài thơ hiếm hoi “Gió bay”:
Người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình.
Thôi, xin tha cho mọi lỗ lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn…
Đầu TK XXI, nhiều nhà thơ cách tân đã sử dụng phương pháp tự trào cổ điển kết hợp với giễu nhại hậu hiện đại, tiêu biểu là nhà thơ Thi Hoàng. Những tập mới xuất bản sau năm 2000 của ông: “Bóng ai gió tạt”, “Cộng sinh với những khoảng trống”, “Chìm vào mật nóng”. Ông thường lấy bản thân mình ra để tự trào và giễu nhại.
“Danh vọng như chó con
Nó liếm mặt khoái ghê. Rồi phải đi rửa mặt
Tôi từng gắp cả những lắc đầu bĩu môi vào bát ăn
Từng mang đạo đức giả ra chợ đời đổi thành nhân cách
Từng nhờ hoa đi giết nỗi buồn”
(Cộng sinh với những khoảng trống)
Thủ pháp giễu nhại là đặc điểm nổi bật trong phương pháp nghệ thuật hậu hiện đại, nó gần với tự trào cổ điển. Thi Hoàng đã khéo nắm bắt cả hai yếu tố này gắn kết chúng lại với nhau trong thơ và hình thành một hệ cấu trúc ngôn ngữ rất đặc trưng:
Kiến tha ra khỏi tai rất nhiều rác thông tin
không phải kiến đâu
ấy là dây cháy chậm
nối vào đêm
định biến đêm đen thành một quả mìn.
Từ “rác thông tin” (A) đến “một quả mìn” (B) hai thực thể này chả có liên quan gì với nhau. Nhưng nhà thơ đã kết nối tài tình, hợp lý đến nỗi ta tưởng như (A) và (B) đã có mối liên kết nội tại từ lâu, chúng là một, không thể tách rời và để gây ra một hệ quả ghê gớm: một vụ nổ! Đọc nhiều bài thơ và trường ca của Thi Hoàng, ta luôn bị giật mình bởi những vụ tiểu bicbang ngôn từ hình ảnh liên tiếp nổ ra kết thành những trận mưa sao băng ý tưởng.
Có thể nói Thi Hoàng là một trường hợp tiêu biểu hiếm hoi của lớp nhà thơ có thành tựu trước năm 1975 đã quyết liệt chuyển đổi từ thi pháp truyền thống sang thi pháp cách tân. Với nội lực thi tài mạnh mẽ, Thi Hoàng đã tạo ra một hiện tượng thơ cách tân khá đặc biệt, một thương hiệu của vùng văn học đất cảng không lẫn với bất cứ ai, ở nơi nào. Và như thế sự phản biện xã hội và thức tỉnh lương tri được thể hiện rất sắc bén.
Tự trào cổ điển và giễu nhại hậu hiện đại còn được nhiều nhà thơ cách tân khác sử dụng có hiệu quả như Trần Quang Quý, Nguyễn Bình Phương, Ly Hoàng Ly, Miên Di…
Một xã hội mà nền dân chủ cởi mở là điều kiện tốt cho hai thủ pháp nghệ thuật này phát huy hiệu quả. Có lẽ đây là nơi gặp gỡ của tân cổ điển và hậu hiện đại chăng?
Trong bài “Lời”, Trần Quang Quý có tuyên ngôn: “Tôi không nói bằng chiếc lưỡi của người khác” và như thế anh phải vượt qua nhiều trở ngại: “Cơn bão từ vựng; núi đồi thanh âm; thác ghềnh cú pháp…”.
Một số tác giả khác:
“Thanh tẩy mãi vẫn không thấy sạch
quay về tắm bằng ngọn đèn…
Xối ánh sáng vào từng góc khuất
góc khuất như lò thúc mầm
như thép nóng đem tôi vào nước”
Mai Văn Phấn
Đã có sai lầm ở đâu đó trong chuỗi thời gian chúng ta sống
đã có điều gì đó không kịp thời
đã có cái gì đó chắn ngang đường.
Giá như chúng ta được lùi lại
giá như chúng ta được bắt đầu…
Đinh Thị Như Thúy
“Nhà thơ, kẻ cần cù gieo khổ đau trên cánh đồng hạnh phúc, kẻ rèn gươm từ tủy não của mình, lửa đỏ máu qua trái tim quay bễ, miệt mài làm những cuộc sát thương”
Ngô Liêm Khoan
“Ngổn ngang nhu yếu phẩm tín ngưỡng
có thể chọn món đức tin quá đát, xài rồi…
thời hạnh phúc thặng dư hay nỗi buồn khủng hoảng
từng con dế bị cầm tù trong hộp diêm thế sự
đấng quyền năng lạ hoắc sáng tạo trần gian bằng những vuông đắt đỏ
từng vỏ người mang khuôn mặt iphon”
Miên Di
“Lấy dao
tìm tre
chẻ và vót cơn giận dữ…”
Lê Va
Nhà phê bình Roland Barthes nói “Văn chương không bao giờ là những lời giáo điều”. Ở dòng thơ này các nhà thơ có nhiều chuyển đổi thi pháp, rõ nhất là ngôn ngữ. Những ngôn ngữ xác tín trước đây được sử dụng như bùa hộ mệnh thì giờ được thay thế bằng ngôn ngữ giả định, nghi vấn, chất vấn.
“Hoài nghi và sợ hãi
là hai cái tát thâm độc nhất
Mình tự đánh mình”
Trịnh Sơn
“Ngộ độc bắt đầu bởi những mỹ từ
Ngày dần khôn và rắn mặt
Lồi lõm những đường tư duy
Gạch xóa
tơi bời trong não”
Đoàn Mạnh Phương
“Mong bạn hoài nghi tôi
Cho tôi tin cậy bạn
Những lời đang vỗ cánh
Chưa chắc là đã bay”
Nguyễn Vũ Tiềm
“Một ngày gió nâng tôi lên cao
gió trao tôi đôi cánh
và bảo tôi hãy cởi gió ra
và bay lên trên ý nghĩ”
Nguyễn Phan Quế Mai
Tâm hồn bay bổng của nhà thơ được chuyển động bởi hai động cơ: tư duy lôgic và tư duy hình tượng. Tuy khả năng suy nghĩ rành rẽ và hợp lý thì không bằng nhà khoa học nhưng họ có lợi thế là nhạy bén và linh cảm. Bằng nhiều hệ quy chiếu khác nhau, họ khám phá và phát hiện vấn đề và những hệ lụy của nó; sàng lọc và có kiến giải nghệ thuật sinh động và khái quát, đánh thức những khát vọng, niềm trắc ẩn sâu kín của con người. Rimbaud từng nhắc nhở: “Nhà thơ phải là một kẻ tiên tri, phải là người có con mắt nhìn xuyên thấu qua mọi sự vật của thế gian này”.
Yếu tố phản biện, dự báo, thức tỉnh, nguồn linh diệu của thi ca đều có tiềm ẩn trong tâm hồn thi nhân cả đấy, nhưng khơi dậy và tỏa sáng thì chưa, sợ tổn thương bóng tối chăng?
3. Chia sẻ nỗi đời & nỗi đau.
Ở thế kỷ XX, thơ đã làm tốt chức năng cổ vũ lòng yêu nước, tinh thần xả thân, hăng hái xây dựng cuộc sống mới; nhưng bà con mong các thi nhân hãy bớt đi cái thì giờ ngồi ngắm bằng khen với chiêm ngưỡng huân chương để nghĩ đến món nợ cuộc đời, ấy lànhững nỗi niềm thầm kín đớn đau, những ẩn ức số phận cần có tiếng nói và được chia sẻ.
Trong tác phẩm “Lý luận văn học”, Lê Ngọc Trà nhận định: “Chúng ta vẫn bắt gặp con người nhưng phần lớn đó là con người tập thể, con người - quần chúng, con người - nhân dân, chứ chưa phải là những cá nhân, số phận”
Vẫn trong bài báo trên, Đào Ngọc Đệ sốt ruột: “Trước những nỗi đau khổ của con người, trước cái xấu cái ác, nhà văn cần phải phản ánh, đồng thời có quyền và phải phẫn nộ về những gì chà đạp lên con người. Nói thế, để thấy rằng, có nhiều người gọi là “nhà văn” nhưng do nhận thức hiện thực một cách phiến diện, do ấu trĩ về tư tưởng triết học, do lấn cấn về tư tưởng khi viết cái xấu, cái ác trong xã hội hiện nay; do né tránh để an phận; do quyền lợi mình đang hưởng, do miếng cơm manh áo thời nay, đã không dám viết về nỗi đau của con người…”
Sự bức xúc trên là có cơ sở. Chiến tranh mới chỉ tạm ngưng ở miền Bắc, PhạmTiến Duật có bài thơ “Vòng trắng”, một trong những bài thơ hay nhất của ông, vậy mà tác giả còn bị lên bờ xuống ruộng. Người cho in bài thơ đó cũng rất trần ai khoai củ! Nhưng sang thế kỷ XXI, các nhà thơ đã có lộ giới rộng hơn để tìm đến đặt bàn tay lên vầng trán nóng hầm hập của những ẩn ức số phận trong cơn sốt chuyển động thời cuộc.
Mai Văn Phấn có cách chia sẻ nỗi đời rất lạ trong bài “Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ”:
Pha xong ấm trà
quay ra
ông khách đã không còn đó
gọi điện thoại
người nhà bảo
ông mất đã bảy năm
nhầm lẫn.
…
trà vẫn nóng
đẩy chén nước về phía ông khách đã ngồi.
Luồng tử khí cao chừng một mét sáu dựng đứng trước mặt.
Chốc lại cúi gập.
Cõi thực, cõi ảo gần như lẫn lộn, người âm, người trần tiếp xúc thật khó hiểu, nhưng suy ngẫm thấy họ chia sẻ nỗi đời theo một cách riêng vừa hỗn mang vừa minh triết. Thơ Mai Văn Phấn mới xem qua tưởng anh quá ảnh hưởng tư duy phương Tây, nhưng không phải, đa số thơ anh thể hiện tư duy triết học Á Đông rất đậm. Tập “Ra vườn chùa xem cắt cỏ” được Page Addie United Kingdom, Australia xuất bản song ngữ Việt Anh: “Grass Cutting in a Temple Garden” thể hiện rõ điều đó. Bài đầu tiên “Ở những đỉnh cột” (On Pole tops):
“Lưỡi tôi bị thắt
treo trên đỉnh cột
mỗi lần nói
chiếc lưỡi phải co rút
kéo thân thể béo ị lên cao
tôi giẫy giụa tựa mảnh vải quẫy trong gió mạnh…”
Nhà thơ bị đóng đinh câu rút bằng lưỡi chăng? Cảm thức về nỗi đau nhân thế luôn phập phồng trong từng câu thơ. Gấp sách lại, tôi hình dung: tập thơ là chuỗi-hạt-thiền kết-bằng-nước-mắt đang chờ đặt vào tay bạn đọc, những vị-chân-tu-cuộc-đời này.
Một số trường hợp khác:
“Em giặt giũ nỗi buồn
Trắng tinh phiền muộn
Phơi vào đêm phần phật bão giông”
Huỳnh Thúy Kiều.
“Đừng ngốc thế em ơi
Anh không chỉ là giấc mơ ngọt ngào mà còn là sự thật đắng cay
Với những tháng năm hận thù và máu lửa
Những tì vết không thể nào gột rửa
Những lớp váng vinh quang”
Khuất Quang Thụy
“Chiếc thuyền nan úp mặt vào ngơ ngác
như vỏ cau khô nhớ tiếc một thời trầu”
Nguyễn Ngọc Phú.
Những bộ xương vô danh muốn trở lại với thịt da
nhầm lẫn chỉ con đường về
bóng tối mục rã thì ánh sáng cũng lụi tàn
các ngài chờ giao thoa trời đất
đừng quên mang theo trái tim ở bất cứ dạng nào.
Vết thương than thở với nơi lành lặn:
ngươi còn được quan tâm”...
Nguyễn Đăng Khương
“Thơ anh có nỗi buồn nỗi vui của gió
Bay trên phận người…
Không mượn chiến tranh làm cú sút
Càng hòa bình thì thơ càng đau hơn…”
Đỗ Quyên (ở Canada).
“Ôi con đường của thời gian chỉ mình ta hiểu được
Trong đôi mắt em buồn”
Nguyễn Chí Hoan.
“Khúc nam ai, những cung phi góa bụa
Chèo thuyền vớt xác mình trên sông…”
Phan Huyền Thư.
Dòng thơ này có lợi thế là dễ tiếp cận với những đề tài nóng bỏng của cuộc sống nhiều biến động và bức xúc. Trước tai nạn rừng U Minh cháy, Tuyết Nga có những câu thơ rất ấn tượng:
“Tro của tiếng chim
của lá của hoa
rơi lả tả trong chiều cùng xác nắng…”.
Huệ Triệu, thân gái dặm trường theo tàu Hải quân ra tận Trường Sa:
“Đảo Sơn Ca
đón chúng tôi
bằng những âm thanh
rung vang ngực biển
Hóa thân vào nỗi đời là thủ pháp quen thuộc của các nhà thơ:
“anh sẽ đeo vào cổ em
sợi dây chuyền bí ẩn của bóng đêm
những chiếc chuông mùa thu trong trẻo
rung lên khi thành phố bay về trời…
anh đeo vào ngực em
cơn bão”
Thanh Thảo.
Ở dòng thơ này, nhiều tác phẩm thấm đẫm chất hiện sinh thể hiện sự cô đơn, thương tổn của số phận con người :
Có lúc
muốn cạo cho nhẵn ghen tuông
mặt con chuột cháy nhà”
Phan Huyền Thư
“Chiếc váy em khe khẽ hát bài ca thân thể
Sự chuyển động mơ màng từ ngực đến chân
Tiếng thở dài khỏa thân trong giấc ngủ
Ngọn lửa thân hình em chảy xiết dưới ngực mình.
Rồi bóng đêm nuốt hết”
Nguyễn Việt Chiến
Thực ra, chia sẻ nỗi đời nỗi đau không phải mới, là thiên chức muôn đời của văn học. Ca dao, Truyện Kiều cùng nhiều áng văn chương cổ, trung đại, cận và hiện đại đã hình thành một Bảo-tàng-Nỗi-đời-Nỗi-đau và được xây nên bằng nước mắt. Thơ cách tân tham gia vào thiên chức này bằng những nỗi niềm chân thật và cách thể hiện rất tự nhiên. Đặc biệt tác giả nữ, với những trải nghiệm đớn đau:
“Bỗng thấy mình đang nói cười hạnh phúc
Trong một nấm mồ sống
Dọc đường đời, dăm ba người đàn ông chị gặp
Những nấm mồ không cỏ xanh”.
Đặng Thị Quế Phượng
“Khi lắng nghe tiếng nói phản biện đằng sau trái tim anh
giấy báo tử cho mùa thiếu nữ”
Ngọc Tuyết
“Xin chị cứ vọng phu, chỉ trái tim đừng mỏi mòn nhịp cũ
Trái tim hãy hát lên gọi anh về”
Thúy Quỳnh.
“Ba của sắp nhỏ ơi
Đừng ghen với người đang chờ để galăng tôi
Người đó có tên là đất
Để chết rồi, tôi được dịu dàng ôm”.
Nguyễn Thị Ánh Huỳnh
“Chị rút sợi chỉ dài bằng cả quãng đời âm thầm thời con gái
Sợi chỉ so le đoạn ngắn đoạn dài...
Đêm chẳng lành hơn
Chỉ có miếng vá nỗi đau này
Chồng lên miếng vá nỗi đau kia”
Nguyễn Thị Đạo Tĩnh.
Ẩn ức số phận là năng lượng bị kìm nén; chia sẻ nỗi đời nỗi đau vừa là lau khô dòng lệ tủi hờn, vừa là giải phóng năng lượng tạo nên sức bật, sự bừng nở như pháo hoa làm rực rỡ bầu trời tâm tưởng.
4. Folklore - humor& ngoại biên.
Chất giọngFolklore – humor trong thơ Việt trước đây khá đậm ở Hồ Xuân Hương, NguyễnKhuyến Tú Xương, Tản Đà, Tú Mỡ… Đặc điểm chính của dòng thơ này là thơ trữ tình có yếu tố Folklore – humor hay giễu nhại. Tiếng cười là tài sản vô giá mà trong thế giới động vật chỉ duy nhất con người được sở hữu. Tiếng cười cùng với sự hài hước hóm hỉnh vừa dưỡng sinh trí tuệ vừa là thông điệp có tác dụng vô cùng sâu sắc, có sức sống lâu bền. Quốc gia nào có nền văn học hay tác phẩm loại này dễ được cộng đồng thế giới tò mò tìm đến và sau đó là giương cao biểu trưng lòng ngưỡng mộ tột đỉnh như trường hợp Don Quixote, AQ…
Giải trí cũng là một trong những chức năng quan trọng của thơ. Nhưng do những biến động thời cuộc, nửa sau thế kỷ XX loại thơ này hình như bị tước hộ tịch, khiến nhà thơ Trần Dần “Chỉ thích đếm những gì không quá một”. Mãi gần đây loại thơ này mới mắt trước mắt sau mon men đặt chân trở lại.
Thử điểm qua một số câu thơ.
“Chân lý đường cong
Cái nhíu mày
Đủ cho người ta đi thụt lùi ra cửa”
Hoàng Vũ Thuật.
“Đám @ đánh võng phóng như bay
thời gian ngã, máu tuôn, thời gian không thể dậy
tốc độ ư ?
thì cũng cũ lắm rồi…
ta lớn lên bằng kiếm tìm
kiếm tìm giờ đã cũ...”
Nguyễn Bình Phương.
“Tôi ôm rổ mắt ngồi chơi
Để xem tấp nập người đời lại qua
Tôi đem rổ mắt làm quà
Khóc cho hết thảy gần xa phận người”.
Lợi Hồng Diệp (ở Ba Lan).
“Hoa đào đã rụng hết rồi
Vừa gặp em. Mới một trời đầy hoa
Cho anh làm lại hôm qua
Thì anh vẫn sẽ như là hôm nay”
Nguyễn Đức Tùng (ở Canada)
Thơ phi lý cũng được Trương Đăng Dung mạnh tay thử nghiệm với bài “Những kỷ niệm tưởng tượng”. Hàng loạt hình ảnh, chi tiết đời sống hết sức phi lý về thời gian, không gian nhưng lại là những sự thực ta vẫn gặp ở đâu đó hay trong những bản tin hoặc trong tiềm thức. Qua đó ám ảnh ta về nhiều lẽ khôn nguôi:
“Cùng nhau thấy những bà mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi”.
Đây là một nét mới nữa mà cuối TK XX không có.
Nhà thơ trẻ Nguyễn Thế Hoàng Linh vừa tưng tửng vừa rất ngầu:
“Mùa đông năm nay không lạnh
em yêu hắn đến đâu rồi?
đã đến lượt tôi chưa nhỉ
em đừng để hắn đơn côi”
Anh viết một số bài thơ có chất giọng “thiên tài” như bài Lời răn của Chúa thoắt đã chuyển sang bông phèng cà trớn. (Nhưng có ai cấm thiên tài bông phèng cà trớn đâu nhỉ)!
Một số nhà thơ trẻ khác:
“Những con rận bò kín ý nghĩ
Những vết chân tăng-gô rê quanh nòng súng hết đạn
Bỗng anh phát giác
Mình bị lủng một lỗ trên đầu”
Nguyễn Hữu Hồng Minh
“Nhìn xuyên qua kẽ ngón tay
Lại nghe thác đổ mới hay tấm lòng
Thì ra bốn chục năm ròng
Nhà em mái lợp giữa vòng tay anh”.
Phan Ni Tấn (Ở Canada).
“Thử làm một chuyến xe đông
đi không để đến và không để về”
Miên Di
***
Dòng thơ này một khi giảm thiểu yếu tố trữ tình vượt ngưỡng thì dễ trở thành thơ ngoại biên, trong số này có thơ Bút Tre. Ở đâu có thơ Bút Tre là ở đó tiếng cười rộ lên thật vui vẻ sảng khoái.
Đừng khen mà cũng đừng chê
Khi xem tiết mục văn nghê quần chùng (văn nghệ quần chúng).
…Mời cô sơi một quả chuồi (chuối)
Ra về nhớ mãi cái buổi hôm nay.
Thi pháp của lối thơ này là khai thác đặc điểm hai loại thanh bằng và thanh trắc của tiếng Việt và vận dụng chủ yếu vào thể thơ lục bát; từ thuộc thanh bằng thì đặt vào vị trí của thanh trắc và ngược lại, gây nên sự tréo ngoe tức cười. Thơ Bút Tre là một sáng tạo độc đáo, chỉ duy nhất tiếng Việt mới vận dụng được, nhưng bị đứng mấp mé ở ngoại biên cùng với thơ trào phúng.
Cũng có lối thơ “sắp đặt” không sử dụng ngôn ngữ mà sử dụng vật thể và hình thể (con người); sắp đặt để nêu lên một ám dụ gì đó từng được thể hiện ở nhiều hội thơ Nguyên Tiêu. Người xem thấy ngồ ngộ vui vui trong thoáng chốc và “mủi lòng vì sự nghèo nàn” (Phan Nhiên Hạo).
Lãng mạn và cợt đùa; đắm say và tỉnh táo; mạo hiểm và e dè… đang còn như một dạng thử nghiệm, nhưng cũng đã phần nào xả stress cho đời sống bớt đi những căng thẳng, trầm uất. Mặt khác, trong khi sự vô cảm và tiêu cực đang có nguy cơ ăn mòn đạo đức xã hội thì Folklore – humor giúp cho thơ trở thành tiếng cười trong trẻo thanh tẩy những vẩn đục tâm hồn và vẩn đục xã hội…
***
Bốn dòng chảy của thơ cách tân tuy hiện diện chưa lâu (có dòng đã có mạch nguồn từ trước như dòng thứ ba) nhưng đã tham dự vào những vấn đề trung tâm của thời đại và an sinh xã hội một cách nhiệt thành nhất và có hiệu quả. Và nổi lên ba vấn đề rất đáng quan tâm:
Một là: thơ nghiêng về cảm xúc, hướng chính là khách quan, ngoại cảnh ít phù hợp với yêu cầu của thời đại mới mà phải đặc biệt chú trọng nghiệm suy lẽ sống, nhân sinh, chủ thể sáng tạo in dấu ấn đậm nét về nội tâm, bám sát những vấn đề nóng bỏng của đời sống (thơ cảm xúc vẫn cần thiết, chẳng hạn trong những hoàn cảnh bùi ngùi cần thấm khô dòng lệ…).
Hai là:Phản biện, dự báo, thức tỉnh còn khoảng cách quá xa so với yêu cầu cuộc sống, mong sao các nhà thơ coi trọng hơn nữa trong những chức năng chính của thơ. Tuy nhiên thực thi chức năng này (tất nhiên bằng thơ) đòi hỏi ở chủ thể sáng tạo một phông văn hóa rộng bao gồm triết học và các khoa học khác cùng với sự trải nghiệm thật hồn cốt về xã hội, con người...
Ba là: thơ cách tân khó hơn, yêu cầu đối với nhà thơ rất cao. Sự trồi sụt là chuyện thường nếu nhà thơ sống hời hợt, mờ nhạt, coi làm thơ như một cuộc chơi chứ không là nghiệp. Và như thế làm sao có được tác phẩm có chiều sâu minh triết và tầm cao khái quát các giá trị nhân sinh?
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.