TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
TRANG THƠ CÁC TÁC GIẢ VIỆT NAM - ĐÀI LOAN
TRANG THƠ CÁC TÁC GIẢ VIỆT NAM - ĐÀI LOAN
THƠ CHỌN CỦA 7 NHÀ THƠ VIỆT NAM VÀ 6 NHÀ THƠ ĐÀI LOAN TRONG GIAO LƯU VĂN HỌC VIỆT NAM-ĐÀI LOAN TẠI HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
Ngày 13.8. 2018 tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam ở Hà Nội đã diễn ra cuộc giao lưu thơ văn Việt Nam – Đài Loan giữa các nhà văn VN và đoàn học giả và tác gia văn học tiếng Đài gồm các thành viên của: Hội Nhà văn Đài Loan, Hiệp hội Văn hóa Việt Đài, Hiệp hội Chữ Latinh Đài Loan, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam (Đại học Quốc gia Đài Loan), đến thăm và làm việc với Hội Nhà văn Việt Nam.
Hai bên cùng nhau thảo luận về phương hướng hợp tác sáng tác, dịch thuật tác phẩm văn học trong tương lai. Cùng ngày, diễn ra lễ ra mắt hai cuốn sách mới và giao lưu đọc các bài thơ tiêu biểu của các tác gia Việt Nam và Đài Loan. Cuốn sách thứ nhất ra mắt là “Truyện các anh hùng Đài Loan: Quyết chiến Siraya”. Đây vốn là cuốn kịch bản vở rối cạn Pồ-tề-hì, một loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian của Đài Loan, được viết bằng tiếng Đài Loan. Cuốn sách đã được dịch giả Lù Việt Hùng chuyển ngữ sang tiếng Việt, Nhà xuất bản Thế Giới xuất bản. Đây là lần đầu tiên, một tác phẩm văn học Đài ngữ được dịch sang tiếng Việt và sự kiện này đã đặt nền móng đầu tiên cho sự giao lưu văn học giữa Việt Nam và Đài Loan.
Điểm nhấn của chương trình là phần biểu diễn một số trích đoạn trong vở rối nêu trên do Đoàn nghệ thuật múa rối của nghệ nhân Vương Nghệ Minh đảm nhiệm. Trưởng ban thư ký Hội Nhà văn Đài Loan, kiêm trưởng đoàn giao lưu lần này, ông Tưởng Vi Văn cho biết: “Nghệ thuật múa rối cạn Pồ-tề-hì là nghệ thuật biểu diễn dân gian mang tính đặc trưng của văn hóa và xã hội Đài Loan. Hiện nay, ở Đài Loan, loại hình này vẫn lưu hành rộng rãi và phát triển mạnh mẽ. Loại hình nghệ thuật này rất giống với nghệ thuật biểu diễn múa rối nước của Việt Nam. Chúng tôi hy vọng người Việt Nam khi xem chúng tôi biểu diễn, sẽ hiểu thêm về văn hóa Đài Loan.”
Cuốn sách thứ hai được giới thiệu ra mắt là “Đi ngang thế gian”, tuyển tập thơ của nhà thơ Trần Nhuận Minh. Tuyển tập thơ này được chọn lựa kỹ lưỡng từ khâu tuyển chọn, biên tập và xuất bản. Điều đặc biệt nhất là tuyển tập thơ này được phiên dịch sang Đài ngữ và trước đó đã được dịch sang tiếng Hoa ngữ ở Bắc Kinh, đồng thời được xuất bản và phát hành tại Đài Loan. Đây là tuyển tập thơ đầu tiên của Việt Nam được giới thiệu tới bạn đọc Đài Loan.
Cuối chương trình là phần giao lưu thơ văn của hai bên. Các nhà thơ lần lượt đọc một số bài thơ của mình và trao đổi về những vần thơ đẹp. Những bài thơ này đã được chọn lựa và dịch song ngữ. Các nhà thơ đại diện của Việt Nam gồm có Hữu Thỉnh, Nguyễn Quang Thiều, Vũ Quần Phương, Y Phương, Trần Ninh Hồ, Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Đức Mậu. Các nhà thơ Đài Loan gồm có Trần Minh Nhân, Trần Chính Hùng, Tưởng Vi Văn, Cao Nguyệt Viên, Tưởng Nhật Doanh.
THƠ CHỌN CỦA 7 NHÀ THƠ VIỆT NAM VÀ 6 NHÀ THƠ ĐÀI LOAN ĐỌC TRONG BUỔI GIAO LƯU
HỮU THỈNH
THƠ VIẾT Ở BIỂN
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em...
NGUYỄN QUANG THIỀU
Hồi tưởng tháng Giêng
Trong chiếu chăn ẩm ướt
Mơ con đường hoa tầm xuân
Chạy qua nghĩa địa
Đã tản mát đồ cúng lễ đầu năm
Một bà già ốm dậy
Hé cửa cảnh giác nhìn
Chạy trốn trong chính bộ lông mình
Con chó mơ một ngày
Sang tận bên kia đường viền ánh sáng
Hy vọng đổ vô hồi
Vào tháng Giêng câm tiếng
Nhưng mùa xuân vẫn còn giấu mặt
Chỉ thả ra một cánh bướm thăm dò
Vào một ngày cuối Giêng
Người hàng xóm goá chồng
Trở về từ nghĩa địa
Cắm đầy hoa tầm xuân trong phòng ngủ của mình.
January Reminiscence
In a blanket of mist
A row of wild roses
Stretches a path to the village cemetary.
New Year’s offerings almost gone,
An old vllage woman rises from her bed,
Opens her door and looks anxiously out.
In the garden a solitary dog crouches in its stiff coat,
Dreams of the time
It may travel beyond the borders of light.
Again and again, hope pours itself out
Into January’s cold silence.
Spring veils its face, sends a butterfly searching.
The last days of the year,
A village widow returns from the cemetery,
Sets a bouquet of wild roses down by the bed.
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Những cánh diều không bay
Những cánh diều vướng trên dây điện
Giấc mơ bay dừng lại nửa chừng
Mùa đang gió, trời đang rộng thế.
Những chú nhỏ đòi gì cũng được
Lần đầu tiên bất lực nhìn lên
Đôi tay xuôi như lá im lìm
Những chú nhỏ thở dài, vĩnh biệt
Giấc mơ bay treo ở lưng trời
Giấc mơ khóc cùng mưa tháng chín:
Những chú nhỏ kia đã lớn rồi !
8-1-1988
Y PHƯƠNG
MÙA HOA
Mùa hoa
Người đàn bà
Mặt đỏ phừng
Ðủ sức vác ông chồng
Chạy phăm phăm lên núi
Mùa hoa
Người đàn ông
Mệt như chiếc áo rũ
Vừa vịn rào đi vừa ngái ngủ.
NGUYỄN VIỆT CHIẾN
CẨM THẠCH VÀ CỎ XANH
1
Bức tượng ấy được dựng bằng cẩm thạch
Mắt xa xôi người góa phụ buồn rầu
Giai điệu xám ngân rung trong đá lạnh
Những nốt trầm mặc tưởng nữ nhân đau
Cũng đá này, người tạc cánh chim câu
Cánh khao khát đập qua bao thế kỷ
Trên bóng đêm chiến tranh đục ngầu
Tự do trắng bay lên không tàn phế
Cũng đá ấy được tạc thành bia mộ
Nhạc khúc buồn tưởng niệm một thời qua
Những họng súng hành trình cùng bão tố
Máu của người và khói đạn chiến xa
Hỡi cẩm thạch xin đừng là bia mộ
Tuổi xuân người đâu chỉ máu và hoa
2
Cỏ từ đất và lưỡi lê trên đất
Những gót giầy xâm lược cắm toàn đinh
Rơi từ mắt và cháy lên từ mắt
Giọt lệ đen, ngọn lửa rực hờn
Nhưng cỏ biếc không chỉ là nước mắt
Chảy trên mình trái đất những dòng xanh
Bị nghiến nát ở dưới vòng bánh xích
Những xe tăng và đại bác tự hành
Những con người gục ngã giữa chiến tranh
Giờ cỏ đã rờn xanh trên ngực họ
Dẫu ngày xưa lưỡi lê và giày đinh
Bước khốc liệt họ xéo dày lên cỏ
Hỡi những ai đã yên nằm dưới mộ
Cỏ bốn mùa xanh một khúc ru
Hỡi những ai chưa phải nằm dưới đó
Đừng làm đau một ngọn cỏ bao giờ
NGUYEN VIET CHIEN
MARBLE AND GREEN GRASS
1
That statue is erected from marble
The widow is so sad,her eyes are distant
Grey melodies tremble in the cold stone
Low notes souldịn quiet remembrance of the woman in pain
With the same stone,people carve dove’s wings
Wings beat with longing over the centuries
On the night shadow of the muddy war
White freedom rises without disability
With the same stone,we carve the gravestones’ head
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.