TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
TRANG THƠ NHIỀU TÁC GIẢ
TRANG THƠ NHIỀU TÁC GIẢ
HỒ MINH TÂM Chuyến xe tháng tư Từ Mỹ Lai
Những lời ru 68 giờ đã ngủ nguôi(1)
những giọt máu 68 toé tung tím/đỏ - giờ đây máu ấy màu gì
bên kia - mặt trời khát lửa
nơi này - huyệt mộ chung
mỗi tháng ba về
các oan hồn còn chúc tụng gì nhau?
Tôi - nắm đất lành - mọc lên ngàn nấm lạ
Mỹ Lai tháng ba
miệng em ngậm mãi trời xanh của người mẹ vừa bị chém ngang
bầu sữa
lúa thì thầm xanh
gió lay tận miền ngơ ngác
ngàn dấu chân hiền lành co quắp
loạn dấu giày điên băm nhão bờ quê
ngày lên tiếng - nấc
Mỹ Lai
bức tượng cúi đầu nói với tôi rằng:
Hãy úp hai bàn tay vào nhau
ở giữa sẽ rung lên lời cầu nguyện
hãy áp hai trái tim vào nhau
ở giữa sẽ chẳng còn lằn ranh chết chóc
Và Mỹ Lai
cái gục đầu của bức tượng kể với tôi rằng:
Mẹ nó chết rồi
thằng bé vẫn bú
sữa mẹ sáng nay vừa ngọt lành vừa mặn
sữa mẹ sáng nay vừa trắng vừa đỏ
sữa mẹ sáng nay vừa la hét vừa lặng câm
Nó ngừng bú
giọt cuối cùng rứt ra, rơi...
đôi môi nó, trên bầu ngực mẹ... chỉ còn máu, chỉ còn máu
tiếng chim lợn hốt hoảng - nó cố giương mắt lên
mây trắng như làn da mẹ
mây xanh như làn da mẹ
mây đỏ như làn da mẹ...
Cố ngẩng đầu cao hơn
ngày xuân những chiếc lá lúa lay lay bé nhỏ
như cánh võng đưa, như bàn tay chị
không, chị nằm bất động ngay đây, bên cạnh mương nước đỏ, bên cạnh
gốc dừa đỏ, bên cạnh nền nhà, mái tranh... cháy đỏ
gốc dừa tự băng bó vết đau, đầu đạn AR15 ngạt thở
vô tri - tự sát - mặt trời - chết trong tăm tối
cố nhìn thêm lần nữa, chẳng còn lời ru nào & nó không còn biết khóc...
âm u giấc ngủ âm u
chim lợn lại vòng qua, đánh thức
lần này, không ngẩng lên được nữa...
nó không thể đưa cánh tay lên... ngày cuối cùng, tắt
Rơm rạ không còn nhận ra nhau
tro vừa bay vừa co giật!
trên chuyến xe tháng tư
tôi lẩm nhẩm bức thư Ronald Ridenhour (một người Mĩ gửi cho dân Mĩ)
“... Ngôi làng ấy nằm cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 10km về phía Đông Bắc... Lực lượng đặc nhiệm Baker đã đặt cho nơi này một cái tên đặc biệt: “Pinkville”. Buổi sáng trung tuần tháng 3, Baker nhận lệnh tập trung toàn bộ hỏa lực hướng vào “Pinkville”. Phải phá hủy hoàn toàn và giết toàn bộ người dân trong làng. Một bé trai ngơ ngác bên đường với một vết thương do bị đạn bắn vào tay. “Cậu bé đứng đó, đôi mắt nhìn xung quanh, không hiểu, không tin vào điều đang xảy ra. Sau đó, một vị Đại úy thuộc lực lượng thông tin đã dùng khẩu M-16 chĩa thằng vào mặt cậu bé và... bắn.
Gruver (một người lính khác)... Anh ta đã chọn cách tự bắn vào chân mình... và nhờ đó, anh ta không phải tham gia vào cuộc thảm sát. Tôi không tin những người lính trẻ Mĩ lại trở thành những tên sát nhân đầy man rợ... nhưng đó là lệnh của người chỉ huy.”
... và tôi khóc.
... đến An Khê
Có thể núi đã cao hơn núi
...
Có thể sông đã dày hơn sông
...
Có thể bazan đỏ đã đỏ hơn bazan từng đỏ
...
Có thể tiếng chiêng đã nặng hơn tiếng chiêng
cúi chiều cỏ biếc
An Khê, Krông Pa, Kon Tum, Đắk Lắk... cả cao nguyên bạt ngàn
huyền sử
trong những nấm đất nhô cao đã có tên
hay không tên
dưới mặt đất bằng lặng cỏ xanh
hay cỏ trắng
có sự sống yên nằm - bốn mươi bảy ngàn trang sử thật
Có thể
có thể
có thể
Nhiều điều có thể
Nhưng chắc chắn một điều
chắc chắn một điều
không thể khác
dưới mảnh đất các anh nằm mãi chồi lên những mầm sống
non xanh.
------ 1. Ngày 16 tháng 3 năm 1968 tại khu vực thôn Mỹ Lai thuộc làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, các đơn vị lính Lục quân Hoa Kì đã thảm sát hàng loạt 504 dân thường không có vũ khí, trong đó phần lớn là trẻ em và phụ nữ.
TRẦN TUẤN Những di chỉ của nước
Trong bóng biển đêm người nhìn thấy gì
thấy ngọn lửa dưới tầng sâu
những cái rễ đang mọc lên
rừng đại ngàn sống dậy
những bước đi không sợ hãi
bàn chân nguyên thủy đáy đại dương
bàn chân tổ tiên
Trong bóng đêm sâu ở biển người không nhìn thấy mình
không thấy đường viền ranh giới của cánh cửa, bờ rào, con đường
và ý nghĩ
chỉ nghe sau tiếng vọng u ơ của sóng choàng lên vai mát lạnh
làn sương
là ý nghĩ rằng người sẽ không nhìn thấy nỗi sợ hãi
Khi ấy tôi nhìn lên trời, đã có sao. Những di chỉ trôi dạt
Trong bóng đêm
những người lính lái xuồng khắp đại dương Hoàng Sa, Trường Sa
tôi nhận thấy họ thường rất kiệm lời
như thể quen với nỗi cô đơn
của những đứa con thường xuyên rời xa tàu mẹ
những chuyến hải hành độc lập làm nhiệm vụ chủ quyền
hành lí bắt buộc mang theo là hình bóng đường về
nhưng rất nhiều đêm lính xuồng bị lạc
bơ vơ tìm tàu mẹ giữa Biển Đông
họ im lặng như đêm
để lắng nghe hơi ấm…
Một sớm mai bên mạn tàu tôi thấy dòng sông trôi ngang qua
dòng sông miền Trung ngặt nghèo dốc dựng bị cắt vụn
mỗi đoạn sông mang mấy cái tên
đăm chiêu chảy giữa đại dương
như bóng quen người làng quảy gánh
người quảy gánh đi đến đâu cứ đi và đi
từng giọt nước sẽ là dấu chân của hành trình bất tận
mặc cho kẻ cướp rập rình
Chỉ dấu của giọt nước dệt đan hoa văn đại dương
di chỉ nước trôi dưới đáy rừng già trôi trên tầng trời
di chỉ bốc hơi ngấm theo vào hơi thở
Người đàn bà gánh gốm Việt lụa Việt đi trên biển cả
nhẫn nại suốt nhiều thế kỉ
lênh đênh phiên chợ ngàn năm
sóng gió không thể nào xóa đi dấu vết.
PHẠM TRƯỜNG THI Uống rượu với bạn cùng ở lính mười năm
Rót rượu ra
mừng ngày gặp mặt
li nhỏ này, mình nhận mình rõ nhất
những thằng ở lính mười năm
Quen lạ gì
chuyện riêng chung rồi ào ra hết
chỉ biết rằng
ngày ấy tao sẽ chết
nếu không có mày
Uống đi nào
say thì lăn ra sàn mà ngủ
xuân không dài cũng đủ
chiều nay đến với bạn bè
Nào uống đi
ngày tháng chiến trường, gian nan rừng rú
nhớ quê biển nhắp từng hạt muối
mừng hòa bình thêm tuổi
bao năm đánh nhau, nay đã vẹn tròn?
Uống đi mừng ta về từ cõi đạn bom
gặp người thân không có điều hổ thẹn
ừ! cứ rót dư ra vài chén
cho mấy thằng ngã xuống trong kia bỏ lời hò hẹn
bữa nay chắc cũng tìm về.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.