• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Diễn đàn lý luận
 
BỜ SÔNG VẪN GIÓ - MỘT BÀI LỤC BÁT HAY

BỜ SÔNG VẪN GIÓ - MỘT BÀI LỤC BÁT HAY



                                                     Phạm Ngọc Thái


 

 


                 BỜ SÔNG VẪN GIÓ

Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió
                           người không thấy về

Xin người hãy trở về quê
Một lần cuối... một lần về cuối thôi
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một đời tóc xanh
Lệ xin giọt cuối để dành
Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
Cây cau cũ giại hiên nhà
Còn nghe gió thổi sông xa một lần

Con xin ngắn lại đường gần
Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi...


                              Trúc Thông
            
    
Đây là bài thơ mà nhà thơ Trúc Thông khóc mẹ. Mới đọc ngỡ như anh đang đứng trước hương hồn người mẹ của mình đã khuất nơi chín suối, để trào ra những dòng thơ thương cảm. Nhưng không, bài thơ này Trúc Thông đã viết vào năm 1983 trong một lần trở về thăm quê, khi đó người mẹ của anh vẫn đang cùng anh sống ngoài Hà Nội. Một năm sau đó (1984) mẹ của nhà thơ mới qua đời. Nghĩa là, linh cảm về cái mất của bà mẹ già yếu đang gấp gáp đến gần, nên lời thơ nghẹn ngào xúc động, thấm đầy lệ.
   Đứng bên con sông Châu chảy qua tỉnh Hà Nam, cũng chính là dòng sông chảy qua quê hương của cố nhà văn Nam Cao, đồng tỉnh với quê hương của nhà thơ. Bên bờ sông ấy nhà thơ than thở:
                  Lá ngô lay ở bờ sông
                  Bờ sông vẫn gió
                                                người không thấy về
    Hình ảnh bờ sông, bãi ngô rất thân thiết, gần gũi với một làng quê Việt Nam. Đọc câu thơ ta liên tưởng tới bài thơ nổi tiếng "Đây thôn Vỹ Dạ" của thi nhân Hàn Mặc Tử, có câu Người đã viết:
                  Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
    Thông qua hình ảnh "... hoa bắp lay": âm hưởng lay lắt, chuyển động yếu ớt của những bông hoa bắp như thể hơi thở trút ra mỏng manh, cô quắt đồng hoạ với cảnh "dòng nước buồn thiu" để diễn tả tâm trạng cô đơn, buồn nản vì thương nhớ người yêu cách biệt trong mối tình đơn phương của thi nhân.
    Nhưng cái từ "lay" của những lá ngô trong bài thơ Bờ Sông Vẫn Gió của Trúc Thông thì lại diễn tả tâm trạng xao động, xót thương nghĩ về mẹ chứa chất một cái gì đó đang dâng lên ở trong lòng. Đồng vọng với tiếng "lay" kia thì tiếng gió thổi: Bờ sông vẫn gió.../- cũng dào dạt mạnh mẽ,  để rồi tác giả hạ nốt nửa vế của câu thơ: ...người không thấy về/- Vậy là, dù cùng một từ "lay" với hình ảnh gió ven sông nhưng ở hai bài thơ đã diễn tả hai trạng thái tình cảm khác nhau, đều xúc tích đạt đến hiệu quả của mỗi tình thơ riêng.
   Đoạn giữa là khổ thơ chính của bài, liền mạch tám câu nhưng ý thơ được cấu tứ thành bốn cặp. Cứ mỗi cặp hai câu nối tiếp nhau đan kết một cách khái quát quanh tình cảm và cuộc đời người mẹ cùng với quê hương:
                 Xin người hãy trở về quê
                 Một lần cuối... một lần về cuối thôi
   Ta thấy sự gắn bó giữa quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn với tình thân mẫu của nhà thơ. Cái điệp khúc "một lần cuối" hơi thơ dồn dập, bởi nỗi lòng mong mỏi, khắc khoải của người con, điệp với ý cụm từ "một lần" ở khổ thơ giữa:
                Một lần cuối... một lần về cuối thôi
    và:
                Còn nghe gió thổi sông xa một lần
    Đến câu kết được điệp lại một lần nữa, thả dần tình thơ... như việc xây dựng cao trào xong rồi cởi nút kết thúc một vở kịch vậy:
                  Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi...
    Nỗi thơ thêm quặn thắt, tạo thành tụ điểm của tình cảm, tư tưởng nhà thơ. Nhưng nhà thơ mong mỏi người mẹ của mình kịp về quê một lần nữa để làm gì?
                  Về thương lại bến sông trôi
                  Về buồn lại đã một đời tóc xanh
    "Bến sông" nghĩa là quê hương. Còn "bến sông trôi..." - Chữ "trôi" ở đây để nói về năm tháng chìm nổi của mẹ đã trải cả "một đời tóc xanh...". Hai câu thơ không chỉ nói về nghĩa gian truân, mà còn hàm ý sâu sắc sự gắn bó máu thịt giữa quê hương với cuộc đời của mẹ. Hai chữ "thương" và "buồn" dùng thật đắt. Nó không phải chỉ để gợi lại nỗi sầu khổ của cuộc đời, mà nếu có thì cũng quyện trong những tình cảm thân thương da diết, làm cho tình thơ cảm kích một cách lạ thường.
    Thực ra khi tác giả viết:
                  Lệ xin giọt cuối để dành
    Chỉ là cách nói trào ra do cảm xúc thơ, chứ còn cả bài thơ đã đầy lệ rồi! Cái giọt lệ cuối ấy để đến khi:
                  Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
    Câu thơ này Trúc Thông đã đề cập đến mối quan hệ, tình cảm phu thê gắn bó không thể tách rời trong cuộc đời của mẹ. Trong thời hiện đại chúng ta ngày nay, nền giáo lý bị xàm xỡ quá nhiều. Nghĩa phu thê nhiều lúc, nhiều nơi bị phá vỡ từng mảng. Đạo vợ chồng cũng không còn giữ được một quan hệ đạo đức cần thiết. Chồng thì thiếu sự mực thước, vợ lại quá trớn không có được đức tính tốt đẹp của người phụ nữ. Có lẽ do tác động của cả bề mặt xã hội làm cho lòng tác giả nhức nhối. Nhưng căn bản chính đạo nghĩa sâu sắc của cha mẹ đã in sâu trong ý thức, trái tim nhà thơ để anh khắc họa lên.
    Thành thử bài thơ tuy viết khái quát mà vẫn đa diện: gia đình và xã hội, tình cảm, đạo đức gắn bó với tình yêu quê hương tha thiết. Trong thơ những hình ảnh cụ thể nhưng lại có ý nghĩa biểu tượng như "cây cau cũ", "cái giại" ở hiên nhà
(là tấm bình phong đan bằng tre thường thấy ở một số làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ), được tác giả đưa vào trong thơ. Nó gắn bó cả cuộc đời của mẹ và gia đình anh.
    " Bờ sông vẫn gió" của Trúc Thông là một bài thơ lục bát đạt đến độ chuẩn mực, kết hợp với lối  gieo thơ theo cảm xúc phóng khoáng của thơ hiện đại. Hình tượng ngôn ngữ giầu chất dân gian, phong thái thanh tao, âm hưởng nhẹ nhàng thường thấy ở dòng thơ cổ phương Đông. Nhịp điệu khi thì đều đều theo nhịp hai, như:
                  Lá ngô/
                              
   lay ở/
                                              bờ sông...
    Khi thì dồn nén, hối hấp theo sự thôi thúc của tình cảm, chuyển sang nhịp bốn ở câu sau:
                  Bờ sông vẫn gió/
                                                người không thấy về
    Hoặc là chuyển thành nhịp ba ở câu bốn:
                  Một lần cuối/
                                          một lần về/
                                                               cuối thôi...
    Tạo thành mạch liên hoàn từ đầu đến cuối.  Những câu chữ, hình ảnh được lựa chọn khá tinh tế, gần gũi, chân thực với đời sống mà ý tứ vẫn sâu sắc. Giọng thơ trong tiếng nhạc lòng trầm, buồn... nhưng thơ vẫn mới, vẫn tươi. "Bờ sông vẫn gió" là bài thơ hay nhất của nhà thơ Trúc Thông - Theo như Ông nói: Ông viết thể nghiệm và đã thành công khi sáng tác bài thơ lục bát này.


  Phạm Ngọc Thái



Tin tức khác

· NGƯỜI NGHỆ SĨ MANG TÊN MỘT DÒNG SÔNG
· BÍ MẬT PHÍA SAU BỨC TRANH NỔI TIẾNG KHIẾN DƯ LUẬN PHẪN NỘ
· PHÁC THẢO VĂN HỌC HÀN QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI
· LIỆT NỮ TRẦN THỊ MINH - MÁ TRƯỚC CỦA TÔI
· TRẦN VÀNG SAO - GIỌT NƯỚC TRONG LÁ SEN -Tiểu luận KHUẤT BÌNH NGUYÊN
· VỊ TƯỚNG TÌNH BÁO TRONG VỎ BỌC CỦA MỘT GIÁO SƯ LẬP DỊ
· ANH ĐỈNH! - Tiểu luận PHÙNG VĂN KHAI
· LĂNG MỘ CỦA VUA LÊ THÁI TỔ Ở ĐÂU?
· BÀI THƠ 'QUÊ NHÀ' CỦA MÃ GIANG LÂN
· NGUYỄN VĂN DÂN - NGƯỜI GIEO HẠT TINH THẦN TRONG CÕI NGÔN TỪ
· THANH THẢO - THƠ CỦA MỐI TÌNH ĐẦU - Tiểu luận NGUYỄN THỤY KHA
· THI PHÁP CỦA THƠ NGẮN TRƯỜNG HỢP MAI QUỲNH NAM
· TIẾNG VIỆT ƠI, TIẾNG VIỆT NẶNG ÂN TÌNH
· NGƯỜI VIẾT 'CHIẾU THOÁI VỊ' CHO VỊ HOÀNG ĐẾ CUỐI CÙNG CỦA TRIỀU NGUYỄN
· BỨC THƯ CÓ MỘT KHÔNG HAI GỬI NGƯỜI ĐANG SỐNG
· NHÀ THƠ NGA EVGUENI EVTUSHENKO - 'TRONG ĐỜI TÔI CHỈ UỐNG RƯỢU LÀ NHIỀU'
· 188 NGÀY ĐẦU ĐỘC LẬP VÀ QUYẾT SÁCH CỦA BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ VÕ NGUYÊN GIÁP
· PHỒN XƯƠNG - KHÚC CA BI TRÁNG
· NHÀ THƠ ĐOÀN THỊ TẢO: CÁM ƠN SỰ CÔ ĐƠN
· TINH THẦN PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG BIỂU TƯỢNG TRONG TRƯỜNG CA 'CÚC'

Tin tức mới
♦ THƯ VIỆN NHỎ TRONG LÒNG NHÀ LƯU NIỆM BÍCH KHÊ (01/09/2025)
♦ NGƯỜI NGHỆ SĨ MANG TÊN MỘT DÒNG SÔNG (30/08/2025)
♦ BÍ MẬT PHÍA SAU BỨC TRANH NỔI TIẾNG KHIẾN DƯ LUẬN PHẪN NỘ (30/08/2025)
♦ PHÁC THẢO VĂN HỌC HÀN QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI (30/08/2025)
♦ LIỆT NỮ TRẦN THỊ MINH - MÁ TRƯỚC CỦA TÔI  (28/08/2025)
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1736022
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 52648
Truc tuyen Trực tuyến: 4

...

...

Designed by VietNetNam