TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
BÀI THƠ 'QUÊ NHÀ' CỦA MÃ GIANG LÂN
BÀI THƠ 'QUÊ NHÀ' CỦA MÃ GIANG LÂN
NGUỒN: Baovannghe.vn -17/08/2025
LÊ NGỌC MÙI
Bài thơ được viết theo thể lục bát. Một thể thơ thuần dân tộc dễ làm khó hay. Nhưng “Quê nhà” của Mã Giang Lân là một đóng góp độc đáo, tinh tế về thể thơ và ngôn từ. Cách gieo vần với những từ láy đem đến sự khác lạ, niềm khoái cảm cho người đọc.
aa
QUÊ NHÀ
MÃ GIANG LÂN
Cũng là một chốn nương thân
ngày chưa cạn chỉ mới ngân ngấn chiều
tôi về chẳng thấy ao bèo
lơ thơ vài luống cải èo uột lên
Dập đầu cúi lạy Tổ tiên
miếng cơm manh áo phải triền miên đi
bây giờ còn lại những gì
một em xa vắng gió vi vu nhiều
bây giờ còn lại những chiều
bếp không loang khói với đìu hiu thôi
Quê nhà mà quá xa xôi
giữa bao thân mến mà côi cút người
vẫn nhà ngõ vẫn là tôi
bơ vơ mới thấm thía trôi nổi này
hương cau hương sả không bay
chỉ mùi son phấn gió ngầy ngậy đưa
không nghe một tiếng gà trưa
chỉ “xình chát chát” say sưa tối ngày
LỜI BÌNH
Tranh Làng quê của Trần Nguyên
“Quê nhà” của Mã Giang Lân đã tạo nên một nét riêng. Ông không dùng “Quê hương” như các thi phẩm quen thuộc của Giang Nam hay Đỗ Trung Quân. “Quê nhà” gợi nên một vùng quê có ngôi nhà thân thuộc nơi ông cất tiếng khóc chào đời, nơi ông lớn lên gắn bó biết bao kỉ niệm với ông bà, cha mẹ, vợ con, anh em, họ mạc, láng giềng.
Mở đầu bài thơ: “Cũng là một chốn nương thân”. Hình như ông đưa ra một định nghĩa về quê nhà. Quê nhà cũng chỉ là “chốn nương thân”. Bước chân của người xa quê trở về khi “ngày chưa cạn chỉ mới ngân ngấn chiều”. Điều thú vị, tài hoa khi thi nhân ý thức dùng toàn từ láy để gieo vần. Từ láy “ngân ngấn” khiến người đọc liên tưởng chiều như nước sắp tràn ly, chỉ chực trào ra trùm phủ khắp quê nhà. Cái “chốn nương thân" trong chiều đậm đặc cứ dần hiện lên qua mắt nhìn của người quê. Những gì thân quen giờ đã mất mát, đổi thay:
“tôi về chẳng thấy ao bèo
lơ thơ vài luống cải èo uột lên”
Câu thơ tự sự, nhưng ẩn chứa bên trong bao nhiêu tâm trạng, nỗi niềm nhân thế. Những năm gần đây “quê hương không còn bóng đa/ không mảnh ao bèo chim choi choi bay nhảy” (Nghĩa địa làng, 2012) khiến ông “buồn lòng ớn lạnh”. “Quê nhà” vẫn trong cái nhìn ấy. Hình ảnh “Ao bèo” được nhắc lại. “Ao bèo" gợi lên một không gian sinh tồn gắn với bao sinh hoạt làng quê, làm nên biết bao kỉ niệm đời người. Vì thế câu thơ gợi sự hụt hẫng, mất mát, hoài niệm. Cái còn lại chỉ là vài luống cải “lơ thơ… èo uột” thoi thóp như cố hiện diện ở đời chút xưa cũ nền nếp nhà.
“Quê nhà” chỉ có ba khổ thơ nhưng cấu tứ chặt chẽ. Tự sự và trữ tình đan xen nâng đỡ cho thơ cất cánh. Nếu khổ một là quê nhà trong mắt người xa quê trở về, thì khổ thứ hai lại là nỗi lòng ngổn ngang như mắc lỗi với Tổ tiên, rồi xót xa chiêm nghiệm cuộc đời.
“Dập đầu cúi lạy Tổ tiên
miếng cơm manh áo phải triền miên đi”
Sau những “triền miên đi” nhìn lại “bây giờ còn lại những gì”? Cái còn lại với ông chỉ là một nỗi đứt lòng “một em xa vắng gió vi vu nhiều”. Cái “còn lại” chỉ là “những chiều” “bếp không loang khói”. Đâu còn những chiều gợi thương gợi nhớ, gợi sự đầm ấm sum họp gia đình với khói lam chiều. Những câu thơ rất gợi cảm được kết nên bằng nước mắt, nỗi lòng đớn đau trong cảnh “đìu hiu”.
Sang khổ thơ thứ ba, nhân vật “tôi” trữ tình đắm chìm trong chiêm nghiệm nghĩ suy về thân phận về nhân tình thế thái.
“Quê nhà mà quá xa xôi
giữa bao thân mến mà côi cút người”
Vẫn là “quê nhà” vậy mà “quá xa xôi”. Sự gần gũi thân thương mà trở nên vời vợi. Trở về quê nhà sống “giữa bao thân mến” thế mà với ông vẫn thấy mình thành người “côi cút”. Cái “côi cút người” trong ông thành chiêm nghiệm cuộc đời: “vẫn nhà ngõ vẫn là tôi/ bơ vơ mới thấm thía trôi nổi này”. Nhà, ngõ, tôi có gì khác đâu, nó như ba định lượng không đổi. Nhưng tâm trạng con người đã hoàn toàn khác. Ông thấy mình “côi cút" lại thấm nỗi “bơ vơ” với cuộc đời “trôi nổi” xa quê. Cái mạch nguồn tự thương, tự ngẫm thấm thía đến chân tơ kẽ tóc đến đây dâng lên như một cao trào. Thì ra quê nhà trong miền sâu thẳm tâm can còn ẩn chứa bao điều thiêng liêng, hệ trọng cứ day dứt trong ông đâu dễ gì bày tỏ hết bằng lời. Đây là mấy câu thơ có lẽ là lời đúc kết chiêm nghiệm cuộc đời và quê nhà vào loại hay nhất trong thơ Mã Giang Lân.
Kết lại bài thơ là một thực tế biến cải vũng nên đồi, nhanh đến chóng mặt ở “quê nhà”:
“hương cau hương sả không bay
chỉ mùi son phấn gió ngầy ngậy đưa
không nghe một tiếng gà trưa
chỉ “xình chát chát" say sưa tối ngày”
Hóa ra “quê nhà” trong ông vĩnh viễn lưu tồn vẻ đẹp của hương cau, hương sả, tiếng gà. Vẻ đẹp làng quê Việt ngày xưa ấy đâu còn. Buồn thay, bây giờ chỉ hiện hữu ngầy ngậy son phấn, tiếng nhạc chát xình đinh tai “say sưa tối ngày”. “Quê nhà” đã mất đi vẻ nền nếp, tao nhã, thuần hậu muôn đời. Ông như hụt hẫng mất đi những gì thân thiết nhất. Lòng ông lo lắng, trĩu buồn.
Sức sáng tạo của nhà thơ chính là dụng tâm dùng những từ láy đôi gieo vần trong suốt toàn bài. Từ nào cũng được dùng đắc địa khéo léo đến độ tự nhiên. Tiếng thứ nhất của các từ láy đôi ấy vừa đóng vai trò tạo vần vừa làm nên nhịp mới cho câu thơ. Có lẽ, đây là một trong những đóng góp độc đáo nhất của Mã Giang Lân trong sự làm mới thơ Việt những năm gần đây.
Đọc “Quê nhà”, ta thấy Mã Giang Lân chân chất mà tinh tế, điềm tĩnh mà nồng hậu đắm say, thế sự đời thường mà triết lý cao sâu làm nên nét riêng khi nghĩ về quê nhà.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.