TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
115 NĂM NGÀY NGUYỄN KHUYẾN QUA ĐỜI - NƠI CHỐN CŨ VẪN AO THU LẠNH LẼO
115 NĂM NGÀY NGUYỄN KHUYẾN QUA ĐỜI - NƠI CHỐN CŨ VẪN AO THU LẠNH LẼO
NGUỒN: Vanvn- CẬP NHẬT NGÀY: 8 THÁNG MỘT, 2024 LÚC 15:48
Ngày cuối năm, xuôi sông Châu Giang về thăm vườn Bùi chốn cũ của nhà thơ Nguyễn Khuyến ở làng Vị Hạ, xã Yên Đổ (nay là Trung Lương), huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Rằm tháng giêng sắp tới là vừa tròn 115 năm ngày mất, 189 năm ngày sinh của nhà thơ.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến được sinh ra ở quê ngoại Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Nhưng năm 1843, ông theo bố mẹ về sống ở quê nội tại làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và Hạ). Lúc đó, dân làng Vị Hạ có dựng một căn nhà đón cụ Nguyễn Tông Khởi – thân phụ nhà thơ – về quê dạy học tại vườn Bùi.
Sau khi từ quan, đây là nơi chốn nhà thơ Nguyễn Khuyến đã sống và làm thơ tới khi qua đời – Ảnh: Đậu Dung
28 năm từ khi Nguyễn Khuyến theo gia đình về quê cho tới lúc ra làm quan vào năm 1871, đây là nơi gắn nhiều kỷ niệm vui buồn với ông.
Khi chưa đỗ đạt, còn túng bấn, năm 1861, nhà thơ phải bán bớt đi một phần diện tích để lấy tiền sinh sống.
Trong bài Giễu mình chưa đỗ, ông viết: “Bốn khóa thi hương không đậu cả/ Một mảnh vườn hoang bán sạch rồi”.
Năm 1874, mẹ ông mất tại Thanh Hóa – nơi ông đang làm quan ở đó. Nguyễn Khuyến đã đưa mẹ về quê, ông cũng ở vườn Bùi chịu tang ba năm.
Sống trong cảnh nước mất nhà tan, nhiều phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, năm 1884, Nguyễn Khuyến đã xin cáo quan về quê ở ẩn.
Lúc về quê, ông chuyển sang ở một khu đất khác ở nhưng vẫn là xứ vườn Bùi. Ông sống ở đây cho tới khi qua đời năm 1909.
Ông Nguyễn Thanh Tùng – hậu duệ đời thứ 5 của Nguyễn Khuyến – kể hằng năm có nhiều học sinh đến đây cầu về đường thi cử – Ảnh: Đậu Dung
Văn chương của Nguyễn Khuyến “nở rộ” nhất giai đoạn này. Hiện còn hơn 400 bài, gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm; đáng kể là Quế Sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán.
Từ đường Nguyễn Khuyến hiện nay vốn là một phần trong khu nhà cũ mà nhà thơ đã sống thuộc làng Vị Hạ trước đây.
Sau khi Nguyễn Khuyến mất, phần mộ đặt ở cánh đồng Ngói, thôn Vị Hạ. Cải táng, con cháu đã đưa phần mộ đặt tại sườn phía bắc núi Phương Nhi (nay là thôn Ngô Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Trước giờ lâm chung, nhà thơ đã làm bài thơ di chúc dặn gia đình làm tang ma đơn giản, không nên bày biện mà miệng thế trầm trồ. Cả đến chức phẩm cũng chỉ cần: “Biên vào mấy chữ trong bia/ Rằng: quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.
Xem thêm không gian từ đường Nguyễn Khuyến
Mặt đằng trước, phía trên cùng là ba chữ lớn “Môn tử môn” (Cửa ra vào của các học trò) – Ảnh: Đậu Dung
Chụp lại từ ảnh tư liệu tại từ đường – Ảnh: Đậu Dung
Bức tượng tạc hình nhà thơ chống gậy trúc, khoan thai nhìn trời xanh – Ảnh: Đậu Dung
Ao cá mùa cạn – Ảnh: Đậu Dung
Năm 1997, nhân dân Yên Đổ dựng bia tạc bài Thu điếu để tỏ lòng tưởng nhớ nhà thơ Nguyễn Khuyến. Bia được dựng ngay bên bờ ao xưa từng gợi cho cụ nhiều thi hứng. Trong đó có bài thơ Thu điếu nổi tiếng với những câu như: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”… – Ảnh: Dậu Dung
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.