TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
'KIỆT TÁC' - THƠ NGUYỄN HẢI YẾN: NHỮNG ÂU LO CAN DỰ
'KIỆT TÁC' - THƠ NGUYỄN HẢI YẾN: NHỮNG ÂU LO CAN DỰ
NGUỒN: Vanvn- Cập nhật ngày: 8 Tháng Mười, 2024 lúc 19:25
Tôi tự hỏi một cô gái dịu dàng, trên môi luôn nở nụ cười nhân hậu nhưng khi đặt bút viết, Yến lại như “Cây ngay không sợ chết đứng”. Quan niệm “cuộc đời nhiều khi cũng như sa mạc, chỉ có cát và nỗi cô đơn” của nhà thơ cứ bàng bạc, khắc khoải, âu lo như hướng đến những thiện lành…
Nhà thơ Nguyễn Hải Yến
Sau khi tốt nghiệp Học viện Báo chí và Tuyên truyền, từ tháng 9.2010 đến nay, Nguyễn Hải Yến công tác tại Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Thọ, được bố trí làm phóng viên tại Phòng Thời sự rồi Phòng Văn nghệ và Giải trí. Khi còn là học sinh, Yến đã có thơ đăng trên báo Văn Nghệ Trẻ, Thiếu Niên Tiền Phong… và là thành viên CLB Phóng viên Tuổi Hồng của báo Thiếu Niên Tiền Phong. Tháng 7.2018, Nguyễn Hải Yến tham gia Lớp bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du, khóa XII do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Tháng 3.2019, Nguyễn Hải Yến là hội viên Chi hội Thơ, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Phú Thọ, và là hội viên trẻ nhất cả nước được kết nạp Hội Nhà văn Việt Nam năm 2019.
Ngoài đời, Nguyễn Hải Yến luôn luôn vui vui và hòa đồng với mọi người nhưng trong thơ thì khác, không dịu dàng mà cứng cáp, rắn rõi và mạnh mẽ. Kiệt tác là tập thơ thứ 5 của Yến, sau các tập Thành phố lên đèn (2017), Đi về phía mặt trời (2018), Nắng (2019), Đôi mắt của bầu trời (2021) được Nhà xuất bản Nghệ An phát hành tháng 8.2024 đã thể hiện rất rõ bản lĩnh “can dự”. Dù là ghi chép, cách nghĩ và viết khiêm tốn của Yến, nhưng vẫn thể hiện khí chất: “Ta ghi chép những biến cố của đất trời, con người, thời đại”.
Hãy xem Nguyễn Hải Yến định nghĩa về thơ: “Thơ là sự liên tưởng điên rồ của trí não” (Một cuộc đời kể lại bằng thơ), trí não có thể vỡ vụn, biến dạng, rã rời, gào thét, hoang mang, thịnh nộ, bơ vơ và buồn. Những nét chấm phá chủ đạo này như những tín hiệu thẩm mỹ réo gọi suốt tập thơ. Nếu ta từng đọc những bài thơ tình ru ngủ trưa hè hay những bài thơ này na ná bài thơ kia, thì khi đọc thi phẩm Kiệt tác thấy choáng, có thể vì sự khác biệt, khác thường, khác kiểu tư duy nhìn nhận cuộc đời thông qua lăng kính của cô gái trẻ thường muốn can dự.
Mở rộng ra vài phút để ngắm, ngẫm quan niệm văn chương của Yến: “Viết văn là một trạng thái không thể đè nén của cảm xúc, đòi hỏi phải được giãi bày, nhất định phải giãi bày. Văn chương giống như một bản nhạc, cần phải có nốt trầm, nốt bổng. Văn chương giống như một bức tranh phải có gam nóng, gam lạnh; có màu đen, màu trắng… Giống như hạt mưa rơi trên khô cằn sỏi đá, văn chương nên tưới tắm cho tâm hồn những cảm xúc mát lành, xoa dịu nỗi đau, gieo cho người ta niềm tin và hi vọng… dẫu rằng, cuộc đời nhiều khi cũng như sa mạc, chỉ có cát và nỗi cô đơn”. Theo quan niệm này, Nguyễn Hải Yến luôn khắc khoải trước hiện thực cuộc sống, một hiện thực nghiệt ngã đang tồn tại chung quanh ta.
Những ngôn từ rối rắm được tung hô/ Trên cành cao, con chim hót gì không ai hiểu/…/ Bao được mất chỉ vì không theo lệ/ Vỗ tay vào rối rắm tung hô… (Vỗ tay vào rối rắm)
Yến đã thấy, đã nghĩ, đã mất ngủ và dũng cảm nhìn quanh, nhìn lên, nhìn xuống, nhìn thẳng, truy vấn cái hình thành và cái sắp trở thành: “Đừng có tưởng đám đông không bao giờ đi chệch/ Hãy xóa tên trong bài viết thử xem…” (Hãy xóa tên trong bài viết thử xem).
Trong một xã hội, đầy những mặt trái, đồng tiền là Tiên, là Phật, là sức bật, có thể mua được mọi thứ, đảo lộn nhân tâm, đạo lý, thói đời, thành một triết lý sống, nhưng Nguyễn Hải Yến lại dám thách đố:
“Anh có thể mua cả ngàn bông hoa
Nhưng chẳng thể mua được tuổi xuân vừa đi mất”
Và Yến đã hỏi câu hỏi của muôn đời chênh vênh:
“Vậy xin hỏi trái tim trong lồng ngực
Tại vì sao có nước mắt người giàu?”
(Nếu tất cả đều mua được).
Tập thơ “Kiệt tác” của Nguyễn Hải Yến
Tôi tự hỏi một cô gái dịu dàng, trên môi luôn nở nụ cười nhân hậu nhưng khi đặt bút viết, Yến lại như “Cây ngay không sợ chết đứng”. Quan niệm “cuộc đời nhiều khi cũng như sa mạc, chỉ có cát và nỗi cô đơn” của nhà thơ cứ bàng bạc, khắc khoải, âu lo như hướng đến những thiện lành. Bài thơ Hãy cho tôi là một điển hình:
“Hãy cho tôi một con dao
Tôi đâm chết con sâu nào đang phá
Những con sâu ăn thân ăn lá
Những con sâu ăn vẹt mòn cả quả
Ăn hết một đời cây
Sâu hóa thành bướm bay
Rồi đẻ trứng vào cây nào mới nhú?
Hãy cho tôi một chiếc gậy
Tôi đập chết con chuột nào đang phá
Những con chuột ăn ngô, ăn lúa
Ăn vẹt cả mùa màng
Ăn hại bồ thóc giống
Những con chuột đẻ đàn trong bồ,
trong rãnh cống…”
Tới đây, đã rõ thái độ tích cực của tác giả và nỗi khát khao muốn “can dự” vào cuộc đời còn nhiều việc phải làm. Trời đất vận động theo tự nhiên, nếu có sự tác động sẽ làm đảo lộn, còn nơi ta đang sống có những bất bình, nếu chạm vào nhẹ sẽ không có sự thay đổi, mà phải dùng dao để giết sâu, dùng gậy để đập chuột, dùng liềm để “cắt hết sự chiếm chỗ ăn phần của cỏ”, điều này đối lập hoàn toàn với thuyết “Vô vi” của Đạo giáo.
Một thông điệp dường như không hài lòng của Yến, nhưng còn có cách nào hơn để khác đi: Hãy cứ ngợi khen/ Một con chuột thơm tho/ Một con gián sạch sẽMột đàn ruồi nhặng thích vo ve/ Rồi đến lúc có cả một khu vườn xú uế… (Hãy cứ ngợi khen)
Nhưng rồi thoáng một chút buồn lan, khi chính Yến đã tự cảm thấy bất lực trước “Những điều trông thấy” (chữ của Nguyễn Du): “Nắn làm sao thẳng dòng sông/ Đời bao gấp khúc viển vông nỗi gì?/ Nâng lên đặt xuống so bì/ Cái cành cây thấp viết gì cho cao” (Lâu chẳng viết một câu nào) và nhà thơ tự an ủi mình trong cõi nhân sinh:
“Nhọn gai như chiếc lá thông
Còn run mỗi độ mùa đông trở về”
Sự bất lực ấy có thể mang đến “nỗi cô đơn của hạt mưa/ hòa trong nỗi buồn của nước” và đau đáu hơn, mất ngủ hơn, khi “Sự cô đơn của cái tôi/ Bị cái ta nhấn chìm trong nước mắt” (Sự cô đơn). Dước ánh mặt trời này, dưới ánh mắt nhìn này, chạy trốn nơi đâu đế hết lẻ loi:
“Chạy trốn sự cô đơn
Lại vấp vào cô độc
Cái gạt nước kêu lên những tiếng rít dài”
(Lối rẽ)
Dù Yến có thấy trống rỗng “thở dài”, hay xem câu thơ của mình là điên rồ, nhưng không, tất cả là tiếng “sục sôi”, “cuồng nộ”, “gào thét”, “Là tiếng kêu của kiếp người”:
“Những câu thơ điên rồ của ta
Là trăm ngàn nỗi đau giằng xé”
(Một cuộc đời kể lại bằng thơ)
Một cuộc giằng xé tê dại, gầm gào, đắng chát như “Nước bốc hơi lên để rửa trời”; như “chán cuộc đời nên xuống tóc/ Thả ngàn hạc giấy xuống dòng sông”, và chính thế, thú thật, Nguyễn Hải Yến cũng chỉ là “Con họa mi trong lồng cất lời ca lanh lảnh”, tiếng vọng của nó có đến bến bờ hôm nay không chứ?
Dù sao, nỗi đau, “Nỗi buồn như nước xiết” của Yến cũng là niềm khắc khoải tuyệt diệu: “Giấu buồn trong nước mắt/ Để thấy đời trong veo…”
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.