TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
20 NĂM HỘI VHNT QUẢNG NGÃI - CHUYỆN CŨ KỂ LẠI
20 NĂM HỘI VHNT QUẢNG NGÃI - CHUYỆN CŨ KỂ LẠI
thanh thảo
Hội văn nghệ Quảng Ngãi kỷ niệm 20 năm thành lập. Cũng là một kỷ niệm đáng nhớ, ít nhất cho những người làm văn nghệ hay có “dính” vào văn nghệ ở cái tỉnh rất khó đoán định “chất văn nghệ” này. Tôi quê Quảng Ngãi, nhưng xa quê từ năm lên 8 tuổi. Sau giải phóng, từ Sài Gòn đi lang thang qua nhiều tỉnh thành rồi tôi cũng về được quê mình vào tháng 6-1975. Vậy mà ký ức quê nhà sau 21 năm xa cách vẫn sáng rõ trong tôi, đã đưa tôi về nhà bằng đúng con đường làng từ đó tôi đã ra đi. Nói thế để thấy dù đã “dân ca ba miền” nhưng trong tôi vẫn “đậm đà bản sắc Quảng Ngãi” lắm lắm. Sau khi tách tỉnh, Ngãi về Ngãi năm 1989, tôi mới được về định cư ở chính mảnh đất quê hương mình. Đó là một hạnh phúc cho đứa con lưu lạc, dù khi qui cố hương, thầy má tôi đã mất cả. Những tháng ngày đầu tiên về thị xã Quảng Ngãi, tôi phải ăn nhờ ở đậu tại báo Quảng Ngãi, còn trước đó, vợ tôi làm ở báo Quảng Ngãi lại phải ăn nhờ ở đậu tại nhà bác Nguyễn Trung Hiếu khi báo chưa có cả một cơ sở tạm. Đó là những tháng ngày đáng nhớ, không phải vì nó đặc biệt đặc sắc gì, mà vì nó khá nhếch nhác. Nhưng ký ức chiến tranh vẫn còn đậm trong tôi, lối sống “ngủ đất nằm sương” cũng chưa phải quá xa đối với tôi, nên khổ thế hoặc hơn cũng “chưa là cái đinh gì” với tôi. Lại sớm có bạn mới, cả bạn thơ nhưng nhiều hơn là bạn…nhậu, và “trong gian khó vẫn…tơi bời”, thế thôi! Ngay trong những ngày ấy, Hội văn nghệ Quảng Ngãi được thành lập. Tôi còn nhớ, người ký quyết định thành lập Hội văn nghệ Quảng Ngãi và ban thường trực Hội là ông Võ Trọng Nguyễn, bấy giờ là phó bí thư trực tỉnh ủy Quảng Ngãi. Tôi vẫn còn giữ cái giấy quyết định ấy, để làm kỷ niệm. Trong quyết định có viết: “ Điều 1: Nay thành lập Hội văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ngãi và chỉ định ban thư ký lâm thời gồm các đồng chí có tên sau đây:
1) Thanh Thảo, nhà thơ, Tổng thư ký
2) Nguyễn Thế Kỷ, nhà viết kịch, phó tổng thư ký
3) Nguyễn Trung Hiếu, nhà thơ, ủy viên thường trực”
Thấy cũng…oai ra phết chứ ạ, tự nhiên, chẳng có đại hội hay bầu bán gì, mình cũng được làm Tổng thư ký (bây giờ gọi là Chủ tịch đấy). Cái giấy đánh máy quyết định là giấy pơ-luya, đen đen vàng vàng, chữ đánh máy cũng hơi mờ mờ tỏ tỏ chứ không được ngon lành như các giấy quyết định bây giờ, nhưng chữ ký và con dấu là thực, tin được. Với cái giấy quyết định ấy, việc đầu tiên chúng tôi phải làm là tìm cho Hội một trụ sở. Xây mới thì không có tiền, chờ được cấp nhà thì chưa biết đến bao giờ, nên Hội tạm thuê nhà bác Nguyễn Trung Hiếu làm trụ sở. Không có bảng hiệu, không đăng quảng cáo trên các phương tiện truyền thông, Hội chỉ thường trực có...chủ nhà và hai cô nhân viên, vừa kế toán vừa thủ quỹ vừa đánh máy. Công việc đầu tiên mà chúng tôi quyết làm là ra tạp chí của Hội. Không có tạp chí văn nghệ thì Hội có khi thiếu cả dấu nặng ấy chứ! Trong một dịp đi Hà Nội tôi đưa ý định xin ra tạp chí bàn với bạn bè văn nghệ ở Hà Nội, ai cũng tán thành và ủng hộ. Nhưng khi hỏi làm sao ra tạp chí nhỉ, thì chỉ một ông bạn trả lời được: phải có giấy phép của Cục xuất bản Bộ văn hóa. May quá, lúc đó trong túi tôi có sẵn mỗi một tờ giấy khống chỉ có đóng dấu của Hội Quảng Ngãi, tôi phải viết nháp cái đơn xin xuất bản tạp chí gửi Cục xuất bản, rồi cậy bạn vàng Nguyễn Trung Đức đem đến Viện văn học nhờ đánh máy thẳng vào tờ giấy khống chỉ. Có đơn xin rồi, phải gặp người mình gửi đơn nhờ giúp chứ! May quá, tôi có quen anh Lưu Văn Hân, lúc ấy hình như là Cục trưởng hay Cục phó gì đó của cái Cục cấp giấy phép xuất bản. Anh Hân tuy là quan chức nhưng hay chơi với anh em văn nghệ chúng tôi, và cũng là tay hay nhậu. Chúng tôi (gồm Trung Đức, Thái Bá Lợi, Nguyễn Thụy Kha và tôi) mời anh Hân đến nhà Trung Đức chơi để thưa chuyện. Gặp chúng tôi ở số 8 Tràng Tiền nhà Trung Đức, anh Hân thì thào: " Dạo đại hội nhà văn 4, tao tới đây tính chơi với chúng mày, nhưng đến đầu ngõ thì thấy...công an nhiều quá, tao lỉnh luôn!" Bọn tôi cười he he: " Bác cứ dạy quá nhời, chúng em dân văn nghệ thật thà như đếm, lương thiện từ tóc đến...lông chân, có gì đâu mà phải theo dõi ?" Anh Hân trợn mắt: Chúng mày đếch biết thì thôi, cánh đó tao quen cả, tao nhầm thế nào được! Nhưng thôi, có gì nói luôn đi! Tôi thưa, thế này anh ạ, Hội văn nghệ Quảng Ngãi mới thành lập, muốn xin phép ra tạp chí, nhờ anh giúp đỡ. Bây giờ, anh em mình đi lai rai cái đã, rồi xin dâng anh cái đơn xin phép. Anh Hân vui vẻ nhận lời đi nhậu với chúng tôi, tiệc đặt ở nhà hàng, bia Heineken hẳn hoi. Như thế, chỉ một thoáng mà giấy phép đã có, Cục cho in một tháng/số luôn, nhưng chúng tôi nói khả năng và tiền bạc không cho phép nên chỉ dám in hai tháng/số. Ngờ đâu, mới ra được số 1, xong là...toi. Toi đặc. Tạp chí lấy tên “Sông Trà"- con sông mang hồn vía của đất và người Quảng Ngãi. Số 1 lại là số kỷ niệm 100 năm ngày sinh Bác Hồ, trùng dịp UNESCO chọn kỷ niệm “Hồ Chí Minh-danh nhân văn hóa thế giới". Một dịp kỷ niệm cực lớn, đâu phải chuyện chơi! Bài vở trong Sông Trà số 1 dành đậm cho chủ đề lớn này, với nhiều bài viết rất hay, cả những tư liệu mới. Những bài vở khác cũng rất tốt, ấy là theo tôi và anh em trong ban biên tập nhận xét. Chúng tôi xin được kinh phí in ấn, và huy động anh em, cả hội viên và chưa hội viên, chạy...quảng cáo. Được kha khá, dù tiền quảng cáo hồi ấy rất ít, nhưng lấy số lượng bù...số lượng, chúng tôi tính tiền nhuận bút số này không hẻo. Quả thật như thế. Trừ một điều, chẳng ai ngờ, chẳng ai dự đoán, nhưng đã xảy ra. Nhưng trước hết, để có bài vở, tôi nhờ anh Nguyễn Thụy Kha và anh Nguyễn Trung Đức làm đại diện (không phụ cấp) cho Sông Trà tại Hà Nội. Anh Kha có trách nhiệm liên lạc để "xin chữ" của Bác Phạm Văn Đồng. Việc này anh Kha làm rất tốt. Qua anh Năng là thư ký riêng của Bác Đồng, anh Kha đã được Bác Đồng tiếp tại Thủ tướng phủ. Nhà thơ Việt Phương đã rất nhiệt tình thảo bức thư Bác Đồng gửi văn nghệ sĩ Quảng Ngãi và tạp chí Sông Trà với nhiều lời căn dặn và chúc mừng tốt đẹp nhất. Bức thư đã được đăng trang trọng trên trang nhất tạp chí Sông Trà. Phần tôi, vốn rất hâm mộ giáo sư-nhà vật lý Nguyễn Hoàng Phương, và có quen ông từ hồi còn học sơ tán tận Đại Từ (Thái Nguyên), lại biết ông đang nghiên cứu sâu về trường sinh học, tôi tìm đến nhà ông để chuyện trò và xin phỏng vấn. Bài phỏng vấn nhà vật lý Nguyễn Hoàng Phương về trường sinh học in ở tạp chí Sông Trà số 1 do tôi thực hiện là một bài báo hay (he he). Cứ ngỡ, với thành tâm thiện ý như thế, với bức thư tâm huyết của Bác Phạm Văn Đồng như thế, tạp chí Sông Trà sẽ được sự ủng hộ từ nhiều phía. Đúng là có những sự ủng hộ thật, nhưng không phải từ tất cả các phía. Khi vào Sài Gòn in tạp chí, tôi và Nguyễn Thụy Kha đã nhận được sự giúp đỡ vô tư của rất nhiều bậc Mạnh Thường Quân, dù không phải giúp tiền mặt, nhưng chỉ một lời động viên, một chỗ ở qua đêm, một chầu nhậu miễn phí…cũng đã là quá quí trong cảnh bần hàn. Tôi vẫn nhớ anh Địch (tôi vẫn đọc đùa “Địch gần ta, ta nhờ địch”), dạo đó làm ngoại thương gì đó cho tỉnh Quảng Ngãi, đã cho chúng tôi ở không mất tiền tại nhà khách T78. Còn bạn hữu ở Sài Gòn thì mời nhậu liên tục. Tạp chí ST khổ nhỏ, chỉ hơn trăm trang, mà hồi đó kỹ thuật in còn lạc hậu nên tiêu tốn khá nhiều thời gian. Cả chuyện làm ma-két hồi đó cũng vất vả so với bây giờ quá nhiều. Cuối cùng thì cũng xong. Nhưng làm sao đưa tạp chí về Quảng Ngãi để phát hành trước ngày sinh nhật Bác Hồ ? Tôi và Kha đang loay hoay thì tình cờ được gặp một người bạn giang hồ quê Quảng Ngãi, một tướng cướp chánh hiệu hồi Sài Gòn chưa giải phóng. Sau hoà bình, anh Ba “rửa tay gác kiếm” và chuyển sang làm nhiều nghề kinh doanh rất lương thiện, gia cảnh cũng khá. Gặp chúng tôi và biết yêu cầu của tôi và Kha, anh Ba tình nguyện lái xe con (tay lái nghịch) của anh đưa chúng tôi và 1000 bản tạp chí Sông Trà về Quảng Ngãi. Một hành động hoàn toàn trên tinh thần giang hồ nghĩa hiệp, vô vị lợi. Vậy là trên chiếc xe tay lái nghịch của một “cựu tướng cướp”, chúng tôi chạy ngày chạy đêm bon về Quảng Ngãi cho kịp giờ phát hành tạp chí. Tạp chí Sông Trà được phát hành trọn vẹn, được rất nhiều lời ngợi khen, nhuận bút trả rất khá so với mặt bằng nhuận bút hồi ấy…Nhưng rồi…Mà thôi, “ Chuyện buồn không thể tin được của…tạp chí Sông Trà số 1” có lẽ không nên kể ở đây, sợ mất vui trong ngày kỷ niệm 20 năm thành lập Hội. Xin khất một dịp khác.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.