• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Diễn đàn lý luận
 
60 NĂM TRƯỚC, CÓ 1 BÀI THƠ GÂY CHẤN ĐỘNG SÀI GÒN

60 NĂM TRƯỚC, CÓ 1 BÀI THƠ GÂY CHẤN ĐỘNG SÀI GÒN



LÊ VĂN NGHĨA

Nhân dịp Tổng đoàn Học sinh Đà Nẵng làm lễ kỷ niệm 45 năm thành lập thì tôi chợt nhớ lại những buổi nói chuyện với những người bạn học sinh ngày xưa về đề tài “bài thơ nào có ấn tượng nhất vào những năm kháng chiến?”. Tất cả đều trả lời rằng đó là bài thơ Một thế kỷ mấy vần thơ của Truy Phong(*). 

Nhà thơ Truy Phong

 

Những năm 1970, trong những buổi sinh hoạt văn nghệ lửa trại sinh viên học sinh, hoạt cảnh kịch thơ Một thế kỷ mấy vần thơ thường là tiết mục ‘đinh’ đầy hào hùng mà ai xem đều cũng sôi lòng. Đến bây giờ, tôi vẫn nhớ giọng ngâm của học sinh Duy Thanh sang sảng:

 

“Cái gì bạo ngược và phi nghĩa

Là trái lòng dân, nghịch ý trời

Sắt thép tinh ròng, binh tướng dữ

Không sao thắng được trái tim người…”

 

Sở dĩ lũ học sinh chúng tôi thích bài thơ nầy vì lời thơ ‘ý tại ngôn ngoại‘ của nó. Làm sao có thể thể hiện sự áp bức của giặc, lòng yêu nước của dân ta bằng những bài thơ ‘bí mật’, từ khu gửi ra cho được. Phải có một bài thơ đã được đăng báo và xuất bản tại Sài Gòn. Do vậy, Bài thơ Một thế kỷ mấy vần thơ rất phù hợp vì nói lên lòng quả cảm của dân tộc ta trong cuộc chiến chống Pháp - mà thật ra chúng tôi đều biết tác giả muốn nêu lên khát vọng thống nhất đất nước từ năm 1956 - khi mà người kháng chiến bị khủng bố cùng cực. Riêng đối với tôi, bài thơ không chỉ kéo dài trong thời kỳ hoạt động ở Sài Gòn mà còn kéo dài đến những năm nằm ở trại 2, được xem chú Năm Khâm - cán bộ Công đoàn biểu diễn kịch thơ. 

  

Ngày 27.4.1956, lần đầu tiên, nhật báo Tiến Thủ đăng một bài thơ trên trang nhất với cái “tít” màu đỏ thật lớn, thật đẹp chạy suốt bề ngang tờ báo khổ rộng. Hai câu thơ “Đinh ninh anh nhớ một lời/Ngày mai thống nhất liền đôi bến bờ” như chọc xoáy vào việc chính quyền Ngô Đình Diệm công khai xé bỏ hiệp định Giơ –neo, không thi hành tổng tuyển cử  thống nhất hai miền Nam Bắc. Bài thơ đó đã gây nên một tiếng vang lớn và là hành trang tinh thần cho những người kháng chiến trong nội thành. Sau nầy có dịp gặp nhà thơ Kiên Giang, lũ chúng tôi được biết khoảng tháng 4.1956, lúc đó chính quyền Sài Gòn tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử và tung chiến dịch ‘tố cộng’ đàn áp những người kháng chiến thì thầy giáo Dương Tấn Huấn đang dạy học tại Trà Vinh, thao thức trước vận mệnh đất nước và muốn dùng ngòi bút để đấu tranh nên đã ‘luồn lách’, mượn chuyện Pháp thua trận, kéo cờ ‘để nói về tinh thần của người dân Việt khi có họa xâm lăng đất nước thân yêu của mình.

 

Nhà thơ Truy Phong đã hoàn thành bài thơ mang tính lịch sử nầy vào đêm 16.4.1956. Thầy giáo Huấn phải ký bút danh là Truy Phong để tránh sự trả thù của mật vụ rồi nhờ bác Hai Phương, thân phụ của một cô học trò, chủ xe đò tuyến đường Trà Vinh - Sài Gòn chuyển bài thơ đến tòa soạn báo Tiến Thủ.
   

Khi đọc bản thảo bài thơ nầy, ông Việt Tha - Lê Văn Thử, chủ nhiệm tờ Tiến Thủ chẳng biết nhà thơ Truy Phong là ai nhưng đọc nội dung, thấm được khẩu khí anh hùng, ông biết ngay là phe ta nên chọn đăng một cách trang trọng trên trang nhứt. Ông viết: “Theo tôi thơ như vậy mới là thơ, thơ của thời đại chúng ta””. Ngay sáng hôm ấy, ở Sài Gòn báo Tiến Thủ bị tịch thâu và chính quyền cho bọn côn đồ đến đập phá tòa soạn tại 224 đường Gia Long (Lý Tự Trọng ngày nay), sau đó tòa báo bị đóng cửa. Ông chủ nhiệm Việt Tha phải đi trốn một thời gian dài.

   

Một thời gian sau, tờ tạp chí Mã Thượng đăng lại Một thế kỷ mấy vần thơ, từng đoạn có tranh màu minh họa. Từ tháng 4.1956 đến tháng 4.1975, bài thơ này được đăng đi đăng lại mấy mươi lần trên báo chí miền Nam: Đuốc Nhà Nam, Thần Chung, Tin Sáng, Dân Chủ Mới, Tiểu Thuyết Thứ Năm… Tờ Selection Du Reader’s Digest, năm 1957 cũng trích dịch lại một đoạn bài thơ này. Lúc bấy giờ, bài thơ chẳng những được nhắc nhiều trên dư luận báo chí như là một bài thơ hay, một bài thơ hào hùng, đánh dấu sự cáo chung một giai đoạn thực dân thống trị trên đất nước ta và, quan trọng hơn, hun đúc tinh thần kháng chiến chống Mỹ.

       

Sở dĩ lũ học sinh chúng tôi bị bài thơ cuốn hút như vì nhà thơ Truy Phong đã làm nên những câu thơ có tính chất tuyên ngôn như: “Việt Nam nước của tôi/ Già như trẻ/ Gái như trai/ Chết thì chịu chết/ Không cúi lòn ai/ Tham lam ai muốn vô xâm chiếm/ Thì “giặc vào đây, chết ở đây!”.

  

Nhà thơ đã khẳng định lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam từ ngàn xưa:

 

“Chắc anh bao giờ quên được,/Những là đường đi nước bước/Những là tên tuổi Việt Nam:/Suối Yên Thế tuôn tràn hậm hực,/Đất Thái Nguyên căm tức nổi vồng./Tháp Mười hận nước mênh mông/U Minh mấy trận bão lòng chưa nguôi!.../Việt Nam, nước của tôi:/Sông sâu, đồng rộng,/Trái tốt, hoa tươi.../Hà Nội kinh thành trang chiến sử/Sài Côn đô thị rạng anh tài/Phú Xuân bừng chói gương ưu quốc/Nghĩa nặng tình thâm vạn thuở nay!/Việt Nam, nước của tôi:/Ruộng dâu hóa bể/Lòng chẳng đổi thay”.
   

Bằng cảm nhận của một nhà giáo yêu nước, đã chịu đựng nỗi đau của người dân khi đất nước bị thống trị, ông đã nêu ra những hình ảnh không thể nào điển hình thêm nữa:

 

“Thôi rồi mảnh đất Việt Nam/Hung hăng anh bóp trong bàn tay tanh!/Nước tôi đang độ yên vui sống/Mít ngát hương mùa, bưởi ngọt thanh/Lúa nặng tình quê, khoai luyến đất,/Không thương nhau lại giết nhau đành!/Cắn răng tôi chịu cực hình/Vuốt râu anh hưởng công linh đồng bào./Anh phân ly Nam, Bắc, /Anh chia rẽ nghèo, giàu/Nước non anh quậy tan tành hết/Cho oán hờn nhau, giết lẫn nhau... /Người chết thì dại, người sống thì ngu./Dân ngu vì bị làm ngu/Đặng dân làm ngựa, làm trâu suốt đời!”

 

60 năm, ngồi đọc lại và xin được giới thiệu với bạn đọc những vần thơ “Cái gì bạo ngược là phi nghĩa/Là trái lòng dân, nghịch ý trời/Sắt thép tinh ròng binh tướng dữ/Không sao thắng được trái tim người!” của nhà thơ Truy Phong mà tôi nghĩ rằng những câu thơ trong  Một thế kỷ mấy vần thơ không chỉ viết cho lịch sử Việt Nam trong thế kỷ đã qua…!

NGUỒN: NHAVANTPHCM 02.8.2016-10:45

 

________

(*) Ông  sinh năm 1925 tại xã Thanh Bình (Cù lao Dài), huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long mất năm 2005 tại quê nhà. Các tập thơ đã xuất bản: Một thế kỷ mấy vần thơ (1970), Thái bình trả lại (1971), Mặt trời lên (1975).

 



Tin tức khác

· SỬ GIA PHÁP: CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÓ TẦM NHÌN XA VÀ NẮM BẮT THỜI CƠ LỊCH SỬ
· NHÀ THƠ PHẠM SỸ SÁU - NHỮNG NGƯỜI LÍNH BIẾT LỚN LÊN CÙNG DÂN TỘC
· MỘT GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU CỦA THƠ CA VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
· NGƯỜI NGHỆ SĨ MANG TÊN MỘT DÒNG SÔNG
· BÍ MẬT PHÍA SAU BỨC TRANH NỔI TIẾNG KHIẾN DƯ LUẬN PHẪN NỘ
· PHÁC THẢO VĂN HỌC HÀN QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI
· LIỆT NỮ TRẦN THỊ MINH - MÁ TRƯỚC CỦA TÔI
· TRẦN VÀNG SAO - GIỌT NƯỚC TRONG LÁ SEN -Tiểu luận KHUẤT BÌNH NGUYÊN
· VỊ TƯỚNG TÌNH BÁO TRONG VỎ BỌC CỦA MỘT GIÁO SƯ LẬP DỊ
· ANH ĐỈNH! - Tiểu luận PHÙNG VĂN KHAI
· LĂNG MỘ CỦA VUA LÊ THÁI TỔ Ở ĐÂU?
· BÀI THƠ 'QUÊ NHÀ' CỦA MÃ GIANG LÂN
· NGUYỄN VĂN DÂN - NGƯỜI GIEO HẠT TINH THẦN TRONG CÕI NGÔN TỪ
· THANH THẢO - THƠ CỦA MỐI TÌNH ĐẦU - Tiểu luận NGUYỄN THỤY KHA
· THI PHÁP CỦA THƠ NGẮN TRƯỜNG HỢP MAI QUỲNH NAM
· TIẾNG VIỆT ƠI, TIẾNG VIỆT NẶNG ÂN TÌNH
· NGƯỜI VIẾT 'CHIẾU THOÁI VỊ' CHO VỊ HOÀNG ĐẾ CUỐI CÙNG CỦA TRIỀU NGUYỄN
· BỨC THƯ CÓ MỘT KHÔNG HAI GỬI NGƯỜI ĐANG SỐNG
· NHÀ THƠ NGA EVGUENI EVTUSHENKO - 'TRONG ĐỜI TÔI CHỈ UỐNG RƯỢU LÀ NHIỀU'
· 188 NGÀY ĐẦU ĐỘC LẬP VÀ QUYẾT SÁCH CỦA BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ VÕ NGUYÊN GIÁP

Tin tức mới
♦ SỬ GIA PHÁP: CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÓ TẦM NHÌN XA VÀ NẮM BẮT THỜI CƠ LỊCH SỬ (01/09/2025)
♦ CHÙM THƠ ĐÔNG HOA - GIAM CẦM NƠI PHÙ HOA (01/09/2025)
♦ NHÀ THƠ PHẠM SỸ SÁU - NHỮNG NGƯỜI LÍNH BIẾT LỚN LÊN CÙNG DÂN TỘC (01/09/2025)
♦ MỘT GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU CỦA THƠ CA VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI (01/09/2025)
♦ THƯ VIỆN NHỎ TRONG LÒNG NHÀ LƯU NIỆM BÍCH KHÊ (01/09/2025)
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1737013
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 52878
Truc tuyen Trực tuyến: 4

...

...

Designed by VietNetNam