TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
BÀ CHỊ LÊ MINH KHUÊ
BÀ CHỊ LÊ MINH KHUÊ
Tạ Duy Anh
Cuối năm 2000, tôi rời trường Viết văn Nguyễn Du về Nhà xuất bản Hội nhà văn, làm ở phòng văn học trong nước, do chị Lê Minh Khuê phụ trách. Việc tôi quyết định chuyển công tác về Nhà xuất bản, phần lớn là do thiện ý của chị, mặc dù cho đến lúc ấy tôi mới chỉ thoáng gặp Lê Minh Khuê vài lần, trong đó thân tình nhất là lần tôi đón chị bằng xe máy đến ăn tối ở khu nhà vườn mới mua của thầy Phạm Vĩnh Cư dưới Cổ Nhuế.
Thực ra tôi đã biết đến tên tuổi của chị từ ngày còn học phổ thông. Hồi đó, khi đang học cấp ba, từ nhà đến trường, chúng tôi phải vượt qua gần 10 km đường liên xã cực kỳ khó đi. May mà có hàng chục cái loa rải đều trên quãng đường đó để chúng tôi cảm thấy hàng chục cây số đánh vật với đá gan gà, lổn nhổn như những cái đầu lâu, không quá dài.
Một lần trên đường về, tôi nghe người ta đọc oang oang những bình phẩm về Lê Minh Khuê qua tập truyện ngắn Đoạn kết. Khoảng ba bốn buổi chiều như vậy. Chính vì thế mà tôi mới tò mò để biết trước đó nữa chị đã có Những ngôi sao xa xôi.
Nhưng đứa bé nhà quê ghét văn chương như tôi (vì nghĩ rằng nó vô dụng!) không lưu lại lâu những gì liên quan đến văn học. Tôi chỉ nhớ có một nhà văn nữ tên là Lê Minh Khuê và chỉ thế thôi.
Hồi ở bộ đội trên Lào Cai, chúng tôi đọc ngấu nghiến bất cứ thứ gì vớ được. Nhờ thế mà thỉnh thoảng tôi vẫn đọc truyện ngắn Lê Minh Khuê, còn nhớ cả những chi tiết ngộ nghĩnh, hài hước của truyện để thỉnh thoảng mang ra bình phẩm mỗi khi bọn đàn ông gặp nhau.
Nhà văn Lê Minh Khuê
Tôi rất thích cái lãng mạn tự nhiên, đậm chất đời sống trong tác phẩm của chị. Về sau chị gặp sự cố và càng nổi tiếng bởi truyện ngắn Bi kịch nhỏ. Lúc này tôi đã dấn thân theo nghiệp văn được một quãng nên bắt đầu quan tâm đến tác phẩm, tác giả bằng con mắt của người làm nghề.
Đó là một truyện vừa thì đúng hơn, nếu căn cứ vào dung lượng. Nó báo hiệu một lối tiếp cận mới với hiện thực đời sống của chị. Tuy vậy giữa chúng tôi vẫn là một khoảng cách rất khó thu hẹp. Tôi quan tâm đến chị theo kiểu kính nhi, viễn chi.
Nhưng có lẽ cũng còn vì cả tôi và chị đều không thích ồn ào, không thích vồ vập. Mọi sự cứ để cho nó tự nhiên. Hữu duyên ắt sẽ gặp. Sau này tôi càng có điều kiện để kiểm nghiệm điều đó.
Về làm biên tập sách, tôi cảm thấy thực sự đã tìm ra một việc hợp với tạng mình. Nghĩa là tôi bắt đầu có nghề, thứ tôi vẫn đi tìm mấy chục năm chưa gặp. Kỷ niệm của tôi với nghề biên tập, là kỷ niệm đẹp với những đồng nghiệp và kỷ niệm thú vị về những cuốn sách mà tôi làm hết cách để nó ra đời.
Tài sản tinh thần của tôi có thêm tình bạn vong niên với chị Lê Minh Khuê. Từ ngày đó tôi như có thêm một bà chị ruột. Cho đến nay chị là người phụ nữ duy nhất mà tôi biết không mảy may ham hố quyền lực, điều tôi chưa gặp ở phụ nữ nào khi ở vào hoàn cảnh như vậy.
Thông thường phụ nữ khi có chút danh vọng, thường muốn thêm quyền lực, để cảm thấy mình hoàn hảo và có cơ hội tận hưởng thú vui thể hiện ý muốn. Vả lại quyền lực thường đi kèm với những quyền lợi vật chất, cái bả cám dỗ không mấy ai thoát được.
Vì thế khá nhiều người cố nổi tiếng để có quyền lực. Tức quyền lực mới là mục tiêu chính của những nỗ lực tinh thần mà họ theo đuổi. Nhưng Lê Minh Khuê thì có thể nói là ngoại lệ. Chị suốt đời chỉ mong sao giữ được cho mình cứ đúng là mình:
Tránh xa mọi cuộc tranh giành với một tấm lòng trong sạch, tự trọng, bền bỉ khát vọng làm những việc tốt đẹp, cho người bên cạnh và cho cuộc đời.
Trông bề ngoài hiền hậu, hơi đơn sơ và cổ xưa trong ăn mặc cũng như cách ứng xử, bất ngờ nhất khi tiếp xúc với Lê Minh Khuê là chị có một cuộc sống nội tâm vô cùng mạnh mẽ, tinh tế và đầy cá tính. Điều này giống như tác phẩm của chị với cái hình thức cổ điển bề ngoài nhưng lại chứa đựng trong nội dung những yếu tố cực kỳ hiện đại.
Nó thách thức mọi thay đổi mang tính nhất thời thường vẫn được lạm dụng gọi là cách tân. Đó là loại tác phẩm có khả năng sống lâu bền. Không thể tin nổi một người như chị, suốt ngày khép mình trong mọi quan hệ, lại có một vốn đời sống dồi dào và độc đáo như những gì chị thể hiện trong tác phẩm.
Chị có một khả năng miêu tả làm bật lên tính cách nhân vật chỉ bằng vài ba câu văn ngắn, rất thần tình và cũng rất đáng sợ. Điều này thường chỉ thấy ở những cây bút đàn ông và tất nhiên phải có tài. (Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… là những trường hợp điển hình).
Trái với vẻ hiền lành, nhường nhịn trong đời sống hàng ngày, khi đối mặt với trang giấy trắng, chị rất đáo để, thậm chí đanh đá về ngôn từ. Sau đây chỉ là vài ví dụ mang tính minh hoạ.
“Cô mặc bộ xoa Pháp mầu huyết dụ, móng chân móng tay cô bôi đỏ lòm. Trang phục của cô chính hiệu là thứ của dân bán tạp hoá trên chợ tỉnh”; “Cô Cẩn đi bên Lân như quả núi đè xuống cái cây bị sét đánh”; (Đồng đô-la vĩ đại); “Chỉ có lợn mới ngủ như vậy thôi”; “Ngân có thói quen lạ lùng, nhìn cô nào Ngân cũng tò mò soi mói:
Cô ta đã bị lột ra chưa nhỉ? (Mưa). “Nó là những khuôn mặt lai người chứ không phải hoàn toàn là vật như trước…”; “Về đến phòng rồi nó còn ra ban công hát ồm ồm, từ xa nghe tiếng hát của nó, trẻ con rúc thật kín vào nách mẹ, còn bọn chó thì nhao hết ra cổng sủa rinh lên.” (ký sự những mảnh đời trong ngõ); “Lòng chưa xổ nặng chình chịch những cứt” (Làn nước dịu dàng).
Nhưng ấn tượng in đậm và sẽ lưu lại rất lâu trong tình cảm của người đọc đối với những trang văn của chị, là sự tinh tế. Cực kỳ tinh tế. Có thể khẳng định Lê Minh Khuê là nhà văn nữ tinh tế vào bậc nhất của văn đàn Việt khi thể hiện những thứ cung bậc tình cảm khác nhau, vô cùng phức tạp và khó giải mã của con người.
Đọc những trang văn như vậy cho cảm giác rất sướng và thoả mãn về nhu cầu thẩm mỹ. Khi gấp sách lại người đọc bỗng thấy muốn kiểm nghiệm bản thân mình. Và chị trở nên rất đáng sợ bởi khả năng nhìn thấu tim gan người khác.
Trong tay chị là con dao tí xíu, cực kỳ sắc, cực kỳ tinh xảo và hoàn hảo về công năng. Nó giống như thứ đồ nghề của nghệ nhân thêu đan hơn là dụng cụ giành cho phẫu thuật. Nhưng vào tay Lê Minh Khuê, nó là cả hai thứ đó.
Cả hai việc, mổ xẻ và kín đáo hàn gắn, chị đều làm điêu luyện như nhau. Không rào đón trước sau, không phải gồng mình thể hiện bản lĩnh lộ liễu, chị thực hành chuẩn xác và lạnh lùng với từng nhát mổ không có sai sót, không để lại sẹo nhưng chạm tới bất cứ chỗ nào chị muốn.
Những tình cảm tưởng có thể chôn sâu, giấu kín dưới tầng tầng nguỵ trang đều vô dụng trước con dao mổ của Lê Minh Khuê. Nhiều tình cảm tưởng đơn giản, tưởng ai cũng có thể thổ lộ và thực sự có lẽ là như vậy, nhưng dưới ngòi bút của chị nó mang một sắc thái hoàn toàn khác, sắc thái của những gì cao sang, thuần khiết, phải sống và trả giá rất nhiều mới có thể tìm thấy sự đồng cảm.
Nhiều tình huống chị tạo ra như đùa nhưng lại khiến người đọc nghẹt thở, lo lắng không biết rồi sự thể sẽ ra sao. Lo cho nhân vật, lo cả cho người viết tự đẩy mình đến chỗ khó. Nhưng mọi thứ cứ tự nhiên đến đích như nó đã phải như vậy, đã và sẽ như vậy.
Nó ám ảnh người đọc bằng việc thiết lập một cuộc chất vấn vô hình nhưng dai dẳng, những chất vấn cần câu trả lời từ trái tim can đảm của con người. Truyện ngắn “Một buổi chiều thật muộn” xứng đáng là một truyện ngắn cổ điển theo nghĩa hoàn hảo về cả nội dung và hình thức.
Có lẽ hình thức truyện không thể thêm bớt gì được nữa, để nó chuyển tải một nội dung đẹp đến nhức buốt tâm hồn. Cái kết cứ tưởng ai viết thì cũng phải kết như vậy, bởi vì mọi sự đã quá rõ ràng. Họ chạy trốn nhau vì yêu nhau.
Họ sẽ trao cuộc đời cho nhau. Và đúng là như vậy. Nhưng vẫn chỉ Lê Minh Khuê làm được như những gì ta thấy bởi cái phần vô ngôn dằng dặc, dằng dặc như nỗi buồn của con người và vì một sự thật kinh hoàng, cái đẹp thực sự không thực sự tồn tại như ta vẫn tưởng.
Làm sao thể hiện điều đó bằng chữ-như tập hợp của các ký tự được. Nó phải bằng một thứ gì đó nữa mà ngôn từ bất lực.
“Dạo đó, thời chiến tranh”, “Mưa”; “ Thầy giáo dạy triết” hay truyện ngắn “ Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê viết truyện này khi chị mới có ngoài hai mươi tuổi)…cũng là những tác phẩm có khả năng tự nhân bản, tự thiết lập đời sống riêng trong tâm hồn người đọc khi mỗi người hoàn toàn có thể đưa ra một cái kết cho riêng mình.
Trong tác phẩm của Lê Minh Khuê thấy hiện rõ hai mảng đề tài: Hoài niệm về một thời lãng mạn và sự nhếch nhác, đồi bại cùng cực của đời sống hiện đại. Và chị có khả năng phân thân rất giỏi. Với mảng thứ nhất là tất cả những gì trong trẻo, dịu dàng, vô nhiễm nhưng cũng khá mong manh:
Từ ngôn ngữ, tâm trạng, tình huống, phong cảnh đến tính cách. Thấp thoáng đâu đó trong hàng loạt tác phẩm loại này là những không gian, những nhân vật thanh sạch tuyệt đối (hoặc ẩn chứa sâu trong tâm hồn là hạt ngọc kết lại từ một tinh thần nguyên khiết), bền bỉ bảo toàn thứ giá trị mang tính cổ điển, bất chấp mọi biến đổi của thời cuộc.
Chúng vĩnh viễn thuộc về thứ mà người ta gọi là vẻ đẹp. Chị cũng dành cho nó loại giọng kể đầy ám ảnh. Nó thường có tiết tấu chậm dãi, phảng phất buồn, tiếc nuối, cam phận, nhiều khoảng trống của sự lưỡng lự, giằng xé, nhiều câu hỏi lơ lửng mà lắm khi thấy xót xa…
Nếu chỉ đọc những truyện ngắn viết về đề tài này, người ta dễ dàng kết luận Lê Minh Khuê là một nhà văn lãng mạng. Nhưng hoá ra còn một Lê Minh Khuê khác, Lê Minh Khuê của những hiện thực không thể tàn khốc và trần trụi hơn được nữa.
Lạ một điều, không gian của thứ truyện này kéo dài từ những khu tập thể nhem nhuốc toàn một mầu xi măng xám xịt, tàn tạ, tiêu diệt triệt để mọi cảm hứng tử tế-hậu quả của quá trình “Nông thôn hoá thành thị” với những “Xóm nhỏ” ghê rợn, nơi hoạ may ma quỷ mới dám trú ngụ và mới sống được- đến một thị trấn (hoặc làng) nằm giáp gianh giữa miền núi và đồng bằng, giữa xưa và nay, giữa ngày và đêm, giữa văn minh đầy cám dỗ và nét văn hoá nguyên khối đang mai một trong nuối tiếc (và cả căm giận nữa), giữa hư và thực.
Một cái thị trấn tràn ngập phân trâu, một cái bến tầu heo hút không thể xác định về không gian, đâu như giữa rừng nhưng lại có vẻ rất gần thành phố hay một cái làng xi măng kinh hãi. Tác phẩm về đề tài này rõ ràng đang là mối quan tâm của Lê Minh Khuê.
Nó thường khiến người đọc ngột ngạt bởi những gì chị mô tả. Những bức tranh vừa bẩn thỉu, vừa tiềm tàng đầy bóng tối, đầy sự hoang tàn…cứ lạnh lùng hiện lên bởi những con chữ không có lấy mảy may chút trang điểm gọi là.
Đó đâu phải là cuộc sống, ngoại trừ cho loài chuột. Nhưng hoá ra đó cũng không phải là địa ngục, nơi những linh hồn tội lỗi bị đày đoạ. Bởi vì trong cái đám nhân quần khô cạn nhân tính, méo mó về ngôn từ, hành vi, thái độ ứng xử ấy vẫn đủ làm nên một kiếp nhân sinh náo nhiệt.
Vẫn có mọi thứ của cuộc sống diễn ra, tồn tại và thây mặc mọi sự thay đổi. Nó vừa nhớp nhúa, kinh sợ nhưng cũng vẫn đủ hấp dẫn để người ta quý trọng từng ngày trên trần gian. Và ở đưới đáy cùng của cái cõi nhân sinh ấy lại vẫn tồn tại những mầm nhân tính.
Những cái mầm này, trong khoảnh khắc chớp loé nào đó trước khi cái ác toàn thắng, bất ngờ mọc lên, hoặc để người ta không biến hẳn thành thú vật, hoặc để người ta không bước bước cuối cùng về phía tội lỗi.
Chủ đề này vẫn bền bỉ theo chị cả ở những sáng tác gần đây như Trên đường đê, Ngày còn dài…Chính thế mà ngay cả ở những tác phẩm hiện thực trần trụi, chất lãng mạn mang tên Lê Minh Khuê vẫn dai dẳng tồn tại và khiến cho tác phẩm của chị không rơi thẳng tuột xuống cái vực đen thẫm của tự nhiên chủ nghĩa mà lơ lửng đâu đó giữa những khoảng tối sáng của tâm hồn con người.
Chị muốn độc giả của chị phải tự đưa ra lựa chọn một cách tự do và đau đớn, nhiều khi quá sức như trong Nhiệt đới gió mùa, tác phẩm hoành tráng nhất của chị xét về không gian, thời gian truyện. Đây là một tác phẩm đòi hỏi người đọc cũng phải được chuẩn bị trước về khả năng tiếp nhận bởi vấn đề “quá cỡ” (so với dung lượng, so với bản lĩnh văn hoá thông thường) mà nó đặt ra.
Không phải ai cũng làm được điều này bởi phải rất cao tay. Nhưng có lẽ Lê Minh Khuê ít để ý đến điều đó hơn là những thứ chị ưu tiên có liên quan đến cuộc sống hàng ngày, hành xử hàng ngày với tư cách một phụ nữ, một người mẹ, một đồng nghiệp, một công dân bình thường...
Điều đó khiến chị là một phụ nữ trọn vẹn, đồng thời là một nghệ sỹ trọn vẹn. Và hơn hết, chị là một con người trọn vẹn. Nổi tiếng nhưng không bám vào đó để tạo hình ảnh, từ đầu chí cuối Lê Minh Khuê vẫn là một phụ nữ dịu dàng, rộng lượng và vô cùng nhân hậu.
Từ đầu chí cuối chị là một người mẹ sùng bái con, tần tảo trong những việc bếp núc, thu xếp gia đình. Ngoài biên tập và sẵn sàng chịu trách nhiệm về những cuốn sách gai góc, ngoài những chuyến công du nước ngoài danh giá, ngoài những cuộc tiếp xúc văn chương sang trọng, là một Lê Minh Khuê cần mẫn chăm lo cho bạn bè đồng nghiệp mà không bao giờ cần trả công.
Bất ngờ lớn nhất với tôi, người phụ nữ ấy có một khả năng hài hước cực kỳ sâu sắc. Trong những dòng chữ có bề ngoài hiền lành của chị, là một nụ cười từng trải và đôn hậu về đủ thứ thói đời, nụ cười không hề cay nghiệt, không hiểm độc nhưng cứ khiến người ta phải cảm thấy xấu hổ, day dứt khi tự soi vào mình.
Chưa bao giờ tôi thấy Lê Minh Khuê to tiếng với ai. Chưa bao giờ thấy chị phàn nàn về quyền lợi hoặc đòi hỏi những thứ mà mình xứng đáng được hưởng-so với nhiều người khác.
Có lẽ những độc giả trong và ngoài nước của chị, nhất là những khán giả chứng kiến chị bước lên bục danh dự nhận giải thưởng văn học châu Á danh giá, sẽ khó mà tưởng tượng một Lê Minh Khuê ngồi miệt mài sửa từng câu, từng chữ cho một nhà văn mới viết và sau đó nhờ thế một phần mà ông ta trở thành nổi tiếng.
Hay nhiều lúc chị còn miệt mài ngồi sửa lỗi đánh máy cho tập bản thảo của một đồng nghiệp nào đó. Lê Minh Khuê là thế, chỉ muốn giúp người khác, bao nhiêu cũng thấy chưa đủ. Chỉ muốn thấy người khác gặp may. Hầu như chị quan tâm đến mọi khía cạnh bình thường nhất mà ngay cả người được quan tâm cũng không nghĩ ra.
Lần ấy tôi được mời đi Hoa Kỳ cùng với hơn chục nhà văn, nhà báo. Đó là chuyến đi nước ngoài đầu tiên của tôi. Mà lại đi Hoa Kỳ. Trước đó ít hôm, chị Khuê hay hỏi tôi về những thứ mà theo chị rất cần cho bản thân khi ở nước ngoài, xem tôi chuẩn bị đến đâu.
Sau đó tiện thể chị dặn kỹ tôi một số điều khi sang Mỹ. Trước khi khởi hành một ngày, tôi đến cơ quan chào chị và mọi người. Chị chúc tôi may mắn rồi lấy trong cặp ra một cái phong bì dầy cộp, bảo tôi cầm lấy mà mang đi.
Hoá ra chị đã chuẩn bị cho tôi cả một tệp những tờ 1 USD để “boa”. Chỉ những ai đã từng đi Mỹ mới biết “boa” cho người phục vụ không phải là cử chỉ ban ơn, mà là ứng xử văn hoá cao, bởi nhiều người chỉ sống nhờ vào tiền “boa”, (Ở Mỹ gọi là “tip”).
Người Việt mình nghèo thì “boa” ít, nhưng không thể không “boa”. Vì thế những tờ 1 USD là cực kỳ tiện dụng. Chị dặn tôi chi tiết nên để lại cho dọn phòng bao nhiêu sau khi rời đi, cho người khuân vác bao nhiêu, cho người bưng bê bao nhiêu…để tôi biết khỏi lúng túng. Thấy tôi quyết từ chối, chị rất buồn nhưng vẫn dặn “nhớ phải boa” kẻo người ta nghĩ sai về người Việt mình.
Lê Minh Khuê là người nặng lòng với những kỷ niệm. Tận khi chị Xuân Quỳnh từ giã cuộc đời, chưa một lần tôi may mắn được gặp. Nhưng ngày nào bước vào phòng biên tập, hễ gặp bà chị Lê Minh Khuê, là tôi cảm thấy luôn có sự hiện diện của một bà chị nữa: Xuân Quỳnh.
Tôi sẽ khó mà đọc ở đâu những điều người ta viết về Xuân Quỳnh hay hơn những gì tôi nghe được từ chị Lê Minh Khuê. Bằng những lời nhỏ nhẹ, không diêm dúa, không tô vẽ, Lê Minh Khuê kể về chị Xuân Quỳnh như kể vụng về một bà chị vừa có việc chạy ra ngoài, bằng những lời lẽ đầy yêu thương, kính trọng.
Và hình ảnh một Xuân Quỳnh vừa thông minh, sắc sảo, hài hước, vừa vô cùng nhân hậu và bản lĩnh cứ dần hiển hiện trước mặt tôi. Mỗi ngày một sắc nét. Mỗi ngày một hấp dẫn.
Chị Khuê khiến chúng tôi cứ tự nhiên ngày ngày nói chuyện về Xuân Quỳnh y như chị còn sống, từng vô cùng thân thiết, từng ngồi tán gẫu hay ăn bún ốc, y như chị vừa tất tả ở đâu về, chuẩn bị bước vào cửa và nói oang oang chuyện khu phố khiến mọi người cười chảy nước mắt rồi chạy ngay sang phòng lãnh đạo trêu chọc thói nhát gan của ông nào đó, y như chị mới làm xong bài thơ hay mua được một cân lòng lợn bằng tem phiếu nhất định phải khoe với lũ đàn em.
Và rồi chúng tôi cứ buồn rầu tiếc nuối sao trời lại hay bắt kẻ tài hoa tốt bụng phải về chầu Ngài sớm, bỏ lại một khoảng trống không thể lấp đầy cho bóng tối lạnh lẽo, đầy hiểm hoạ.
Và thế là, qua bà chị Lê Minh Khuê, chẳng biết từ bao giờ, tôi có thêm trong đời một bà chị lớn Xuân Quỳnh để thương nhớ, để khoe với mọi người và để làm mẫu cho nhiều tình huống khó xử trong cuộc sống hàng ngày.
Ngay cả điều đó cũng chỉ Lê Minh Khuê làm được. Bởi như mọi việc khác, từ cặm cụi viết những tác phẩm nổi tiếng, quan tâm tới bạn bè, đến kể chuyện về đồng nghiệp hay lặng lẽ chia sẻ với ai đó…chị cũng cẩn trọng, thật lòng, hồn nhiên như đang sống một phần đời của mình vậy.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.