TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tư liệu
BÍCH KHÊ - THI SĨ THẦN LINH (đề tựa tập thơ TINH HUYẾT)
BÍCH KHÊ - THI SĨ THẦN LINH (đề tựa tập thơ TINH HUYẾT)
Tôi xin trích ra đây vài đoạn ở mỗi bài:
... Là mùa xuân và là mộng, là hương;
Là bao nhiêu rạo rực của lòng thương
Trong cát bụi như là trong xanh thẩm.
... của cỏ hoa chen rát rắm;
Của thời gian tàn tạ lẩn muôn đời;
Của mến yêu cay đắng đọng thơm tươi;
Là thi tứ, là đúc chung một áng
(THI TỨ)
Anh ghì lấy ảnh. Những đau thương
Thấm tận lòng anh khổ chán chường
Anh úp mắt vào dôi mắt ấy,
Rồi không ngăn được, lệ anh tuôn…
Nước mắt tràn trên đôi mắt ấy,
Nào hay anh khóc, phải em đâu!
- Đời mô em khóc vì anh khóc
- Cho lệ lòng anh bạc vẻ sầu!
Anh không rời nửa ảnh thơ ngây
Và trở nên người dễ khóc lây.
Anh khóc... mắt anh trong mắt ấy
Để rằng:
- Em khóc với anh đây!
(ẢNH ẤY)
Tôi với anh không biết nhau bằng mắt,
Nhưng hai tim đều lắng tiếng âm ty.
Với lệ máu cùng mờ xa muôn sắc,
Hai tim thôi đều yêu lỉm trong si!
(THỜI GIAN)
...............................................
Chừng ấy thôi, mà tài và tình hòa hợp một cách song toàn rung cảm người đọc đến da diết, tê mê.
Suốt trong một năm 1938, tôi hết sức khích lệ chàng, mong mỏi ở chàng một thi sĩ xuất sắc, cao cường.
Cái hy vọng của tôi sốt sắng quá, nóng nảy quá, đã một lần đưa tôi vào sự thất vọng chán chê và tức bực. Gần cuối năm ấy, chàng gửi ra cho tôi nhiều thơ, mà tôi chẳng lựa được bài nào cả.
Tôi gửi trả lại chàng kèm với bức thư mà tôi đã dùng rất nhiều lời khiêu khích mỉa mai (cốt làm cho chàng tức). Quả nhiên chàng giận run người lên và vội trả lời, thề với tôi rằng: Trong sáu tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường, bằng không sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến làm thi sĩ nữa.
Ngờ đâu sự hằn học của chàng đã bật nảy thiên tài của chàng ra. Không đợi đúng sáu tháng, chỉ trong vòng ba tháng thôi, chàng đã viết được một tập thơ, viết bằng máu huyết tinh tủy và châu lệ, và tất cả say sưa, đắm đuối của một hồn thi sĩ.
***
Ra đời...
Một bông lạ nở hương, một thứ hương quí trọng, thơm đủ mọi mùi phước lộc.
Ta có thể sánh văn thơ của Bích Khê như đóa hoa thần dị ấy.
Và đem ra phân chất, ta sẽ thấy thơ chàng gồm có ba tính cách khác nhau:
1. Thơ tượng trưng,
2. Thơ huyền diệu,
3. Thơ trụy lạc.
Lối tượng trưng và huyền diệu ngời ánh như màu sắc của Paul Valéry, cho ta thấy thi sĩ đã chịu ảnh hưởng nhiều của tác giả tập thơ “Charmes”. Nhưng chịu ảnh hưởng với một tài trí thông minh, khiến người đọc chỉ biết phục thiện mà không dám chê. Vẫn biết tài bắt chước mô phỏng, ai cũng có thể làm được. Song le nếu không phải một chân tài, sự mô phỏng sẽ trở nên vụng về sống sượng. Và vì thế ta mới bảo trái lại là bắt chước được như người đã sáng tác ra, hoặc có giá trị tương đương, hoặc xuất sắc hơn, là một sự khó khăn vậy. Bích Khê là người có tài, có sẵn cái tài đã lâu, chỉ gặp cơ hội phát triển, là bao nhiêu anh hoa đều tiết lộ ra cả.(1)
Sự phát triển bồng bột quá, đồi dào quá, sẽ đưa linh cảm chàng đến một địa hạt siêu thần hơn; thơ chàng cũng như hồn chàng, sẽ qua hết những không khí nhiệm màu, bay cao đến tột cùng của Nước Trời hay chìm đắm xuống đáy sâu Địa Ngục.
Sự điên cuồng ấy uyên nguyên ở một thiên tài, và ở một phần của “Đau Khổ”. Chàng là người đã “sống”. Những tình cảm sâu xa dù là ở cõi tiềm thức đi nữa, cũng đã hơn một lần nảy nở rồi... Tình cảm càng giàu sang bao nhiêu, tâm hồn chàng càng thanh thoát bấy nhiêu. Tư tưởng vì thế nhiều khi biến đổi bất thường, tin tưởng đó rồi lại ngờ vực liền. Với thời gian, trí tuệ sẽ tiến hóa, đi tới một mực quá khích, lay chuyển hết các sợi giây thần kinh trong người thi sĩ, xô đẩy thi sĩ đến những bờ bến xa lạ của cảm giác, đắm chiều sa ngã vào sự khoái lạc của thần hồn cũng như của thể xác. Ở những miền thú vị chưa khai phá, thi sĩ sẽ nhờ sức trụy lạc đưa đẩy tới. Là vì luôn luôn, thi sĩ khát khao hoài vọng cái mới cái đẹp, cái gì rung cảm hồn phách chàng đến tê liệt, dại khờ, dù là cái đẹp ấy là cao cả hay đê tiện, tinh khiết hay nhơ bẩn, miễn là có tính chất gây nên đê mê, khoái lạc. Tới đây, ta nhận thấy văn thơ của Bích Khê nhuộm đầy máu huyết của Baudelaire, tác giả tập Les Fleurs du Mal. Thơ lúc ấy sẽ ham thích hết sức những cái gì thanh cao, như hương thơm nhơn đức của vì á thánh, hay say mê điên dại cái gì hết sức tội lỗi mà người thế gian chưa từng phạm tới...
***
Bây giờ đây, mời các vị vào chơi vườn nghệ thuật của chàng. Trước hết, ta hãy đến khu vực Tượng trưng.
Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì sự thực sẽ trở thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu...
Với những cảnh trí, sự vật rất tầm thường, hơn nữa, tội lỗi, nhuốc nha, rùng rợn mà chàng, trái lại thấy ở những chỗ ấy là cao siêu, là nhơn đức, là thơm tho, khoái lạc cả... Những bài như Sọ người, Khách sạn, Tranh lõa thể, Trái tim, Đồ mi hoa, v.v. đã đưa đến cho ta những sự nhận xét rõ rệt. Thí dụ bài Sọ người. Ta không kịp rùng rợn với mảnh óc trắng trơn, với hàm răng như tinh, thì thi sĩ đã vội bảo ta đấy là bình vàng chén ngọc chứa bao chất ngọt ngào say dại, uống đến ngất người đi cả thủy thơm cả não mát…
Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng!
Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương!
Ôi bình vàng! Ôi chén ngọc đầy hương!
Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng!
Ôi thần tình! Người chứa một trời thương.
Người yên tịnh nhưng người đi muôn dặm
Máy thu thanh hòa âm nhạc thơm tho!
Miệng yêu kiều mơn ánh sáng say no!
Nguồn trinh tiết gây hồng tươi xanh thắm!
Bầu sữa người êm mát vạn sầu lo.
Cái sọ người không còn là cái sọ người nữa. Mất hết cả ghê rởn của sự chết, sự hãi hùng tàn phá của thời gian đối với sự vật. Để còn lại hình ảnh của khối mộng, của buồng xuân, của hồ nguyệt. Trước kia, thối tha, nhơ nhớp bao nhiêu, thì bây giờ lại thơm tho, sạch sẽ, đến muốn cắn vào hàm răng trắng dẻ, muốn nút hết chất gì ngọt ngọt ở miệng, chất gì mát mát ở mắt, ở hai lỗ lủng, hai cái hố sâu hoắm.
Ở Sọ người, cũng như ở Tranh lõa thể, sự trần truồng dâm đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ, của hương, của nhạc, của trăng, của tuyết. Quả nhiên là một sự khong khen thanh tao quá đến ngọt lịm cả người và cả thơ:
Dáng tầm xuân uốn trong tranh Tố nữ,
Ô tiên nương! Nàng lại ngự nơi này?
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu đây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc.
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
Trực giác của thi sĩ mạnh quá đến nỗi thấy nhan sắc lên hương, thấy cả sóng nghê thường đương nao nao gợn, và so sánh hai hàng nước mắt trong trắng của Nàng là hai chiếc đũa ngọc. Và thấy mái tóc u huyền xinh như một mùa thu mươn mướt, thi nhân bảo đấy là đêm đang ngủ mơ...
Nếu chẳng phải là một nghệ thuật siêu thần, thi nhân làm sao đưa đến một nguồn sống phong tình mà thanh khiết cho giai nhân? Để có cái ma lực huyền diệu cám dỗ được ngũ quan của người trần...
Sự say mê, tìm kiếm những nguồn hoan lạc vô biên đã dần dần đẩy thi nhân vào bờ bến của huyền diệu. Ở đây, sự mường tượng của thi nhân lại dồi dào hơn nữa, người ta chỉ gặp toàn âm thanh đương ngã ngớn, với muôn thứ xạ hương bay lẳng lơ trong lồng nhạc, trong khi có hằng hà sa số là ánh hào quang va vào hồn hoa, chạm nhằm không khí lạ. Không có sự say đắm nào ở phương xa, hay sự mong nhớ nào cách biệt mà không đến đây để sum vầy, gây nên cảnh tượng đoàn viên của một mùa thơ, mùa trăng bát ngát.
Ở địa hạt Huyền diệu, ta thấy thi nhân chú trọng về âm thanh và màu sắc. Trong khi nói đến nhạc, thi nhân nghĩ ngay đến những cung cầm chơi vơi, âm điệu rung động cả không gian. Và bởi mê man với sự “nhẹ nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương”, thi nhân đã sáng tạo được rất nhiều bản ca thần tình diễm ảo. Và nhạc lúc bấy giờ cũng không còn là nhạc nữa. Nó đã bay ra hương, ra hoa, ra thơm, ra mát, ra ngọt, ra ngào, ra gì mê tơi, run rẩy, hay âm thầm nức nở, lanh lảnh như giọng cười, mơn man như ân tình đòi hỏi...
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi! Nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
(TỲ BÀ)
Đây là cả một trời yêu thương da diết, một trời tương tư, một trời âm hưởng, buồn não buồn nê:
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông
Thi nhân kéo ta đi lướt thướt trong cõi u hoài đằm thắm từ những bản đàn xôn xao hồi hộp như Tỳ Bà, Mộng Cầm Ca, Hoàng Hoa, sang qua một thế giới hào quang, nảy cho ra nghe một điệu nhạc hiền hậu và ngọt ngào vô cùng đến tê cả lưỡi và hàm răng:
Ô! Nắng vàng thơm… rung rinh điệu ngọc,
Những cánh hồng đơm, những cánh hồng đơmói
Nhẹ nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương;
Màu trăng không gian như gờn gợn sóng.
Từ ở phương mô nhạn mang thơ về,
Đàn thơ cơ hồ lên cung âm điệu.
Đây giây trinh bạch khóc mướt trong mơ;
Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ?
Ô! Côi lầu mây ánh gì kim cương,
Áo nàng thơ ngây nao nao nghê thường.
Thơ bay! Thơ bay vô bàn tay ngà,
Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say!
Nàng ơi! đừng động… có nhạc trong giây,
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây;
Nhạc lên cung hường, nhạc vô đào động,
Ô nàng tiên nương! Hớp nhạc đầy hương.
(NHẠC)
Đấy là một lối sáng tạo, bỏ vần ở chữ thứ tư (vần giữa) ta đọc đến những câu:
Nhẹ nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương;
Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ?...
Thơ ngà ngà say! Thơ ngà ngà say!...
Ô nàng tiên nương! Hớp nhạc đầy hương.
Phải chăng ta nhận thấy sóng âm thanh xao gợn, nổi trôi, lên xuống như muôn hoa lá bị cơn gió lùa. Lời thơ rất thanh, ngào ngạt những tình ý say sưa, mát mẻ, phổi ta, tim ta, hồn ta, nở nang ra, háo hức một mối lương duyên kỳ ngộ.
Tác giả khéo dừng hơi (césure) và hạ vận ở chữ thứ tư, làm cho câu thơ nửa như riêng tây, nửa như thuận hòa.
Chưa hết đâu! Thi sĩ Bích Khê vốn là tay sành âm nhạc, đã nghe quen tai những bản đàn tây như valse, menuets, sérénade, marche... đã từng lĩnh hội và thiệp liệp đến thể cách của văn thơ Thái Tây, nên am hiểu một cách thông minh những lối sáng kiến từ điệu...
Và đây là một đoạn thơ phảng phất như âm điệu bài “Réversibilité” và “Harmonie du soir” của Baudelaire, hay bài “Féerie” của Valéry:
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ.
Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nằng nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trong mơ...
(MỘNG CẦM CA)
Âm thanh là một nửa tinh thần, anh hoa của thế giới Huyền Diệu. Còn một nửa khác phải là màu sắc phương phi của khí thiêng hun đúc, rạng rỡ cả một trời lưu ly, mã não, trân châu. Hình như, đã lâu lắm, chàng thi nhân có cái ý niệm bao quát, tân kỳ, đem mình ví với một thiên tượng luôn luôn ấp ủ những khói mây huyền ảo. “Chaque être un ciel qui fabrique indéfiniment des nuées”. Tôi ráp gần lại câu nói của Edmond Jaloux, tác giả L’Oiseau-Lyre để biểu thị cái ước mơ vô hạn của một linh hồn khát khao vàng ngọc của Nước Trời cao cả.
Màu sắc, như ta đã thấy trong các thi phẩm đông tây đều gồm có hai tính cách:
1. Màu sắc cụ tượng,
2. Màu sắc trừu tượng.
Màu sắc cụ tượng thì lộ nguyên hình bằng bản chất của nó, như gấm, như hoa, mà ta rờ được, nắm được với đôi tay (palpable), còn màu sắc trừu tượng là thứ gì nửa thực, nửa hư, nghe, thấy, biết mà không làm chủ được nó, ví dụ: ánh sáng, hương thơm, nhạc vui, không gian, thanh khí...
Màu sắc cụ tượng rất dễ tìm, dễ kiếm, trái lại màu sắc trừu tượng rất khó sáng tạo, vì đây là cái đẹp của thơ, và phải có con mắt của thi nhân, của một kẻ siêu phàm, thoát tục mới nhận thấy cái đẹp thiêng liêng, phép tắc ấy, và mới thấu triệt hết tinh hoa của nó. Với màu sắc trừu tượng, thi nhân có cái công phu làm cho trở nên cụ tượng. Nghĩa là có thể nắm được một nạm hào quang, lùa không gian vào vạt áo, dồn kinh cầu nguyện về phương Nam, cho hai tiếng sáo đuổi nhau là là…
Bắt cái vô hình trở nên hữu hình, khiến cái chết trở nên sống, cho vật câm không còn là câm nữa.
Đấy là tất cả nghệ thuật và trí tưởng tượng phi thường của thi nhân, nếu thi nhân là một thiên tài!
Bích Khê đã tỏ cho chúng ta thấy chàng xứng đáng với hai thiên tài ấy:
Ô cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm!
… Một bàn chân ve vuốt một bàn chân!
Mát làm sao! mát rợn cả châu thân.
Máu ứ lại, máu dồn lên giữa ngực.
Ôi! Thớ thịt có đàn lên cung bực
(BÀN CHÂN)
Bên những chữ cụ tượng cặp mắt, bàn chân, châu thân, ngực, thớ thịt, rất tầm thường không gợi cho ta được một sự rung động tân kỳ nào cả, mà thi sĩ đã khéo đưa cho chúng một nguồn cảm giác tinh thần khiến đôi mắt ngời sắc kiếm, bàn chân được ve vuốt, châu thân mát rợn lên và thớ thịt lại có đàn lên cung bực.
Và đây là những màu sắc mầu nhiệm mà trí người thường không tạo ra được:
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
(NGHÊ THƯỜNG)
Ở khu vực tượng trưng và huyền diệu, ta đã ngợp với màu sắc chan chói, no ớn với nhạc hương dịu dàng, bây giờ ta hãy sang chơi địa hạt Trụy lạc. Ở đấy GIây thần kinh và gân huyết ta rung động say mê bởi những làn khoái lạc của xác thịt nóng, thơm, ran ran lên cả người:
Ta vồ người như một miếng mồi ngon;
Miệng ngậm hờn riết chặt lấy môi son;
Mắt đổ lửa lườm qua làn sóng sắc...
Tôi giật nẩy rồi cười lên sặc sặc,
Hai tay cào đôi vú trắng như bông...
(XÁC THỊT)
Ở địa hạt dâm cuồng này, ta thấy thi sĩ Bích Khê hoàn toàn là Baudelaire. Vì trong tác phẩm chàng, gợi dục tình thì ít, mà làm cho người ta ghê rởn đến gớm guốc cái cảnh trần truồng khả ố thì nhiều.
Tới đây, ta tưởng là đi đến chỗ tận cùng của vườn hoa nghệ thuật, nhưng không, chàng còn mở rộng biên giới để cho ta thấy chàng là một thi sĩ Đông phương rất “tàu” mà lời thơ chàng nhuộm đầy màu sắc của các thi gia đời Đường:
Mộng trắng phau phau, vót cung nga:
Xuân Hương! Người ngọc, máu say ngà!
Nhấn dây tơ loạn, - buồn lơi lả,
Đờn phất hương trăng nẩy điệu ra...
(MỘNG)
Thơ Bích Khê đủ các vẻ tài tình, nghệ thuật của thơ chàng là nghệ thuật một tay trường trải, rất lão luyện tinh thông niêm luật tho Đường.
Nhưng, thơ chàng rồi đi đến đâu, một khi đã lên cao chót vót?
Sau khi đã chán chê tất cả những khoái lạc của xác thịt, đã ớn ê với phong vị trăng, hoa, gái, rượu..., thi sĩ bây giờ như đã tự giác ngộ, tự thấy tâm hồn mình thanh sạch quá chừng và đâm ra ghê rởn những điều tội lỗi... Thi sĩ liền nâng thần trí lên với Trời để ca ngợi cái nhân đức sạch sẽ. Tìm mãi cái đẹp không thấy, vì tất cả mọi sự ở thế gian đều tầm thường cả, thi sĩ mới nhận ra rằng, chỉ có cái gì đời đời, cái gì hằng sống (éternité) mới thỏa mãn được nỗi khát khao thương nhớ vô hạn của thi sĩ.
La douleur dit: passe et finis!
Mais toute joie veut l’éternité,
Veut la profonde éternité.
(NIETZSCHE)
Cho nên thơ chàng sắp bay sang thế giới huyền bí để đi đến chỗ tuyệt đích là: Tôn giáo. (2)
Có say khướt mới đào muôn tứ ngọc;
Có điên rồ mới hớp ý trăng sao;
Có dâm cuồng mới dâng cả lên cao,
Nơi chu lưu một nguồn thơ bất tuyệt,
Nơi trí người tạo ra rồi xóa hết,
Nghiễm nhiên người là Chúa tể vô biên.
HÀN MẶC TỬ
Chú thích: (1) Xem Tiếng Dân, ta thấy Bích Khê đã được hoan nghênh về thơ cũ (1931-1936) (nguyên chú của Hàn Mặc Tử)
(2) Xin hiểu nghĩa chữ ấy với tất cả tinh thần của nó. (nguyên chú của Hàn Mặc Tử)
Nguồn: Tinh huyết, Trọng Miên xuất bản, Hà Nội, 1939, tr. V-XIX.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.