TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
BÙI TRỌNG HIỂN - HỒN XANH NHƯ NƯỚC TRÀ GIANG CŨ… -Tiểu luận MAI BÁ ẤN
BÙI TRỌNG HIỂN - HỒN XANH NHƯ NƯỚC TRÀ GIANG CŨ… -Tiểu luận MAI BÁ ẤN
28/03/2023 08:10:38 PM
- MAI BÁ ẤN
Sinh năm 1971 tại Tp Quảng Ngãi, đang công tác tại Tp Hồ Chí Minh, Bùi Trọng Hiển từng được báo chí ngợi ca là “Luật sư của người nghèo”. Trên Báo Sài Gòn Giải Phóng, có lần anh tâm sự: “Ngay từ khi còn học đại học, tôi đã ấp ủ dự định khi thành luật sư sẽ bào chữa miễn phí cho người nghèo để giúp họ đòi công bằng, bảo vệ quyền lợi chính đáng, góp phần cho luật pháp nước mình tốt đẹp hơn, bớt oan sai…”. Bằng tấm lòng nhân hậu ấy, anh đã đến với thơ với hai ấn phẩm (Vầng trăng xanh cõi mộng - 2006 và Khởi từ uyên nguyên ra biển rạng - 2022).
Cũng như bao người con Quảng Ngãi ly hương, nỗi nhớ quê hương luôn đong đầy trong tâm thức và trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong thơ Bùi Trọng Hiển. Có lẽ do đặc điểm nghề nghiệp, hàng ngày luôn phải đối diện với sự minh bạch, cứng nhắc của những quy định pháp lý chăng mà khi đến với thơ, nỗi nhớ quê cứ in đậm trong toàn bộ sáng tác của anh! Đó là dòng sông Trà “lượn lờ uốn khúc” và “vàng” lên nỗi nhớ khôn nguôi:
Một sớm tôi về thăm lại dòng sông
Trà Giang xưa vẫn lượn lờ uốn khúc
Cát đôi bờ vẫn một màu vàng mượt
Gặp con đò lặng lẽ một mình trôi (Về thăm lại Trà Giang).
Là núi Ấn với ngôi chùa cổ nổi danh cùng huyền thoại về “giếng Phật, chuông Thần”:
Nơi đây cổ tự ẩn non xanh
Linh khí ngàn xưa tụ đất lành
Giếng cổ thâm nâu sâu mạch nước
Chuông đồng ngân vọng thức u linh (Viếng chùa Thiên Ấn);
những làng quê “thấp thoáng ụ rơm vàng”:
Thấp thoáng xa ụ rơm vàng trong nắng
Bếp khói lam tiễn bước người ra đồng (Về thăm lại Trà Giang);
những ngọn đồi tuổi thơ biếc một màu hoa sim tím:
Thôi đành nhặt cánh hoa sim
Nhớ nhung nhuộm tím một miền hoàng hôn (Buổi ta về).
Và nhắc đến Quảng Ngãi xưa là nhắc đến một vùng đất với “mùi thanh vị ngọt” của đặc sản mía - đường nổi danh cả nước:
Dường như tim đã vấn vương
Mùi thanh vị ngọt của đường mía nâu (Người em Quảng Ngãi).
Cũng như các nhà thơ Quảng Ngãi xa quê: Con bống sông Trà gấy bé lắm/ Chết còn mở mắt tiếc đường bơi (Đoàn Vị Thượng), với Hiển, con cá bống sông Trà “gầy bé” kia đã thật sự trở thành “một ám ảnh lớn”: Tôi đưa người ấy sang sông/ Thương con cá bống giữa dòng (Đưa người sang sông);là tô don thơm mát, cay nồng, ray rức một vị quê:
Thăm Thành cổ, mình ăn don
Vị hương đặc sản món ngon sông Trà (Người em Quảng Ngãi).
Và tất nhiên, như một “mật mã” của thi ca, nỗi nhớ quê luôn song hành cùng nỗi nhớ những người thân. Đó là người mẹ tảo tần:
Chiều nay con nhớ quê xa
Nhớ nơi bến nước gốc đa, mẹ chờ (Mẹ tôi)
cùng người cha thầm lặng gửi khát vọng vào con:
Từ sâu thẳm lòng con luôn khắc nguyện
Sống tốt lành để không phụ tình cha (Cha tôi).
Và người em một thuở hẹn hò. Nỗi nhớ người yêu tan hòa cùng nỗi nhớ quê hương:
Người ở bên trời, ta ở đây
Bao nhiêu thương nhớ thắp đêm ngày
Thắp trong màu nắng vàng quê cũ
Thắp nến cô đơn nỗi vắn dài (Vườn xưa).
Vọng tưởng về quê của người xa quê thường vọng về những cái đã qua, đã thuộc về quá khứ, nhưng ở Bùi Trọng Hiển, những cái mới đã và đang hình thành trên quê hương cũng được anh ghi nhận một cách thỏa đáng, có lý có tình qua những lần “về thăm lại”:
Tôi lang thang dạo bước quãng đê dài
Lòng bâng khuâng nhớ những bờ xe nước
Rồi tự nhủ: Ấy hồn quê thuở trước
Còn bây giờ đã có nước Thạch Nham (Về thăm lại Trà Giang).
Thắng cảnh xưa hòa nhịp cùng những cảnh đẹp hôm nay, tạo nên trong thơ Hiển cả một Quảng Ngãi xưa và nay vô cùng thi vị: Cùng em thăm những miền quê/ Bình Sơn, Thiên Ấn, Mỹ Khê, Trà Bồng/ Cùng nhau đón sớm hừng đông/ Trên cầu Cổ Lũy mênh mông đôi bờ/ Về Thạch Bích cảnh nên thơ/ Tà dương khuất bóng cuối bờ tre xanh/ Qua La Hà, em với anh/ Cùng xem thạch trận đá xanh có còn(Người em Quảng Ngãi).
Đọc thơ Bùi Trọng Hiển, ta được đọc cả những địa danh nổi tiếng, những đặc sản quê hương đầy sức lay động và mời gọi. Có cảm giác như cứ sau khi tan việc, trở về với ngôi nhà riêng, nỗi nhớ quê trong anh cứ réo gọi nhau về. Nhiều đêm thức trắng cùng nỗi nhớ để nghe dế giun than thở với chính mình: Nhớ quê thổn thức nhiều đêm trắng/ Giun dế chạnh lòng cũng thở than (Trăng viễn xứ). Cùng cảnh ngộ ly hương, qua thơ Hiển, tôi tin rằng: hồn thơ anh chính là một mảnh “hồn xanh” của dòng sông Trà quê quán:
Hồn xanh như nước Trà Giang cũ
Sớm tối đò ngang những chuyến thơ (Hồn thơ xanh).
Thế mới biết, trong đời người, nguồn cội, quê hương chính là suối nguồn của mọi tình yêu thiêng liêng, cao lớn khác.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.