TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
CHÙM THƠ LÊ ÂN
CHÙM THƠ LÊ ÂN
KÝ HOẠ SÔNG
Một mình gánh cuộc lở bồi
Vừa bươn bả sóng, vừa trôi dạt bèo.
Khi trầm đục. Lúc trong veo
Đời hoà nhập bể, tình neo đơn nguồn.
Vừa nghiêm mật. Vừa buông tuồng
Một mình phơi cuộc vô thường lợi danh.
Vừa bền bỉ, vừa mong manh
Một từ bi giữa đành hanh cõi người!
NHỮNG LINH HỒN HỒI HƯƠNG
Cánh đồng mẹ cỗi cằn vẫn kiên nhẫn chắt chiu ơn trời nghĩa đất.
Ngày xuân, chiếc bánh chưng xanh thơm ngậm ngùi hương nếp.
Nửa dành cho đứa lập công!
Nửa dành cho thằng phản bội!
Dòng sông cha, bên lở bọt bèo bên bồi lận đận.
Vẫn thao thiết những mùa hoa tìm về với biển.
Hoa thầm nước mắt.
Nửa xót đứa xa nguồn!
Nửa thương đứa vì dân!
Hai chị em, riêng bến trông chồng.
Chung tiếng chuông đời cầu siêu nỗi đau hai bờ sóng.
HẠT
Đã từng là hạt
Lang thang cánh đồng quê nhà.
Cánh đồng mồ côi
Nuôi hạt mồ côi.
Mồ côi cõng mùa khát hương thèm mưa móc.
Hoá hạt buồn lấm lem lưng nồi đất hong ngọn lửa chiều bơ vơ khói.
Khói lam lũ nỗi gì mà mái tranh cứ dùng dằng duyên nợ.
Đã từng là hạt tình.
Hạt tình lang thang cánh đồng nghĩa nhân mải miết.
Mải miết cánh đồng trầy trụa nuôi hạt tình trầy trụa.
Hoá hạt buồn gùi hạt thơ vùi trong trời -đất.
Hạt thơ trở cơn lăn lóc làm người.
Không thể quên mình phôi thai từ lửa hương ủ nơi đời rạ!
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.