• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Diễn đàn lý luận
 
CỐT TỦY VĂN HÓA CỦA VẦN TRONG THƠ -Tiểu luận NGUYỄN THANH TÂM

CỐT TỦY VĂN HÓA CỦA VẦN TRONG THƠ -Tiểu luận NGUYỄN THANH TÂM



VHNTQUANGNGAI, 08/05/2023 09:59:05 AM         


Vanvn- CẬP NHẬT NGÀY: 7 THÁNG NĂM, 2023 LÚC 23:17

 

 Trong cái nhìn bao quát, truyền thống của thơ Việt Nam là thơ có vần. Vần thơ là câu chuyện rất lớn của sinh hoạt thơ ca, sáng tác và nghiên cứu – phê bình, từ xưa đến nay. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Nền tảng văn hóa nào trở thành cốt tủy để duy trì vần thơ? Tại sao nhiều người vẫn làm thơ có vần, dù ở thời điểm hiện tại, vần không còn là yếu tố bắt buộc của thơ?

Nhớ lại, từ trong lịch sử, thơ trữ tình đã dung chứa yếu tố vần như là cơ chế bắt buộc, để phân biệt với văn xuôi. Vần trở thành đặc tính quan trọng, hiện hình ở bề mặt câu chữ, tạo nên nhịp điệu, nhạc tính cho thơ. Trong “Truyện Kiều“, khi Thúy Kiều gặp mộ Đạm Tiên, Nguyễn Du tả rằng: “Rút trâm sẵn giắt mái đầu/ Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vần”. Bốn câu ba vần ấy là hình thức của một bài cận thể – tứ tuyệt (hoặc bát cú) vốn là mẫu thức của thơ ca trung đại. Chẳng hạn, Nguyễn Khuyến viết: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo/ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí/ Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” (Thu điếu) – Bốn câu, có ba vần (eo) hòa kết với nhau, tạo nên sự hô ứng của thanh âm và nhịp điệu, đồng thời biểu đạt trạng thái của thiên nhiên và lòng người.

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) – Người khởi xướng thơ tự do không vần, giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp.

Đến thời cận – hiện đại, vần vẫn giữ vị thế là yếu tố chủ chốt, dù khuôn khổ bài thơ đã được tháo tung theo tinh thần mới của con người cá nhân. Các thi sĩ thời Thơ mới vẫn nương vào vần như là một di sản quan trọng của thơ, dù họ đả kích mạnh mẽ những hình thức cũ kĩ cũng như tâm tình ràng buộc của thơ trung đại: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lý bóng xuân sang” (“Mùa xuân chín” – Hàn Mặc Tử); “Tôi có chờ đâu, có đợi đâu/ Đem chi xuân lại gợi thêm sầu/ Với tôi tất cả như vô nghĩa/ Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau” (“Xuân” – Chế Lan Viên). Không đòi hỏi bắt buộc về số câu, số chữ, nhưng vần vẫn hiện diện tạo nên sự nhịp nhàng trong cấu trúc vận hành của thơ.

Thơ Việt Nam “lỡ một nhịp tiến vào hiện đại” với việc từ chối những hành động cách tân của Nguyễn Đình Thi. Câu chuyện về thơ không vần đã rộ lên một quãng ngắn rồi dần chìm xuống, ngay cả với người tiên phong khởi xướng là Nguyễn Đình Thi. Dù những biến động của lịch sử xã hội và thơ ca sau đó có như thế nào, vần vẫn hiện diện trong thơ một cách bền bỉ: “Anh viết cho em tự đảo này/ Cu Ba hòn Đảo Lửa, Đảo Say/ Ở đây say thật say trời đất/ Sóng biển say cùng rượu mật say” (“Từ Cu Ba” – Tố Hữu); “Từ nơi em gửi đến nơi anh/ Những đoàn quân trùng trùng ra trận/ Như tình yêu nối lời vô tận/ Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn” (“Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” – Phạm Tiến Duật).

Chiến tranh đi qua, đất nước thống nhất, thơ ca cùng cả nước bước vào những chặng đổi mới đầy hứa hẹn. Những cách tân nghệ thuật ngày càng được chú ý hơn, tuy vậy, vần thơ vẫn có sức sống bền bỉ, làm thành một dòng chảy khá lớn trong thơ Việt Nam đương đại: “Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa/ Thương vườn cũ gẫy cành và rụng trái/ Áo em ướt để anh buồn khóc mãi/ Ngày mai chúng mình ra sao em ơi” (“Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa” – Lưu Quang Vũ); “Ở bên kia thành phố có sương mù/ ai hát đấy: ta buồn như cỏ dại/ dậy thôi em, mùa thu không trở lại/ giấc mơ nào trên cỏ hãy còn xanh”… (“Mùa thu không trở lại” – Nguyễn Việt Chiến). Trong không khí của thời đại mới, những trăn trở về cuộc đời, thân phận dẫu có ngặt nghèo bao nhiêu, thơ vẫn tìm thấy trong vần một sự kết liên mật thiết. Hiện trạng này cho thấy điệu tâm tình của thi sĩ hướng về phía những du dương, hài hòa vốn là kinh nghiệm có tính truyền thống trong mỹ cảm thơ Việt.

Bìa tập thơ “Mấy vần thơ” của Thế Lữ, NXB Đời nay, 1935.

Từ cái nhìn thật nhanh về thơ Việt Nam, chúng ta nhận ra sức sống mãnh liệt của vần trong thơ, dù như đã nói, nó không còn là yếu tố bắt buộc nữa (Ở một dòng chảy khác, thơ Việt Nam đương đại đã rũ bỏ vần, khổ, để tiến tới những hình thái tự do của nhịp điệu, tâm tình). Trở lại với những câu hỏi đã nêu lên ở đầu bài viết, nền tảng văn hóa nào duy trì sức sống của vần trong thơ? Sẽ có nhiều lý do thuộc về tâm lý sáng tạo, hệ giá trị của người sáng tác và người thưởng thức cũng như thị hiếu chung của thời đại. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa có lẽ nằm ở “vô thức tập thể”, “mẫu gốc” (C.G. Jung) của cộng đồng thẩm mĩ thơ Việt. Chính vần điệu đã nuôi dưỡng con người trên xứ sở này từ khi chưa lọt lòng. Những bài ca dao, dân ca, lời ru, điệu hát… đã tự nhiên thấm thía vào hồn người từ bao đời, ngưng đọng và cố kết thành cấu trúc thẩm mĩ, thành điệu sống.

Mặt khác, cư trú trong không gian văn hóa nông nghiệp gắn với tiết nhịp của mùa màng – thời gian và cảnh quan đã hình thành cảm niệm về quy luật tuần tự – lặp lại, có thể là cơ sở cho những thực hành nghệ thuật, từ văn học dân gian đến văn học viết: “Con cò mà đi ăn đêm/ Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao/ Ông ơi ông vớt tôi nao/ Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng” (Ca dao); “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí con con” (“Tự tình” – Hồ Xuân Hương); “Có cánh phượng nở giữa đông/ Hay là tôi lạc ở trong lòng mình/ Tìm giọt nước mắt đồng trinh/ Vẹn tuyền sau những chuyến tình em xa/ Tìm nỗi buồn của bông hoa/ Trong niềm vui nở thơm qua cuộc đời/ Tìm gần gụi nơi xa xôi/ Hạnh phúc trong cõi lòng tôi rất buồn” (“Bao nhiêu buồn một dung nhan” – Miên Di).

Một khía cạnh khác nữa, có lẽ, những khó khăn cực nhọc khi phải đối diện với nghèo đói, thiên tai, giặc giã và bao vết thương của đời sống từ xửa xưa tới nay, đã kích hoạt nhu cầu cần được vỗ về của con người nơi đây. Vần thơ, với tính chất nhịp nhàng, hài hòa của nó đã tỏ ra hiệu quả trong việc vỗ về tâm hồn con người, xoa dịu những tất bật lo toan thường nhật: “Thôi đừng dỗ cỏ lên trời/ Khi tan mộng mị biết ngồi với ai/ Dấu chân đừng hóa chông gai/ Nép vào bóng xế dũa mài hoàng hôn/ Ta về đổ bóng xuống vườn/ Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng/ Ghé môi vào miệng thời gian/ Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non” (“Tản mạn về cỏ” – Mai Văn Phấn).

Gần hơn, từ khi đến trường, học sinh đã thuộc lòng những bài thơ trong sách giáo khoa (không phải là các thể loại khác), vốn đa phần là những bài thơ có vần. Ký ức đó rất có thể đã chi phối, hỗ trợ rất nhiều cho việc thưởng thức và sáng tạo sau này, ít ra là tạo nên mối liên hệ thân thuộc của người đọc, người viết với những tổ chức ngôn từ có vần. Điều đó, cho đến hiện tại vẫn đang tiếp tục hiện diện, và dĩ nhiên, có thể các bạn nhỏ sẽ bắt đầu tác phẩm đầu tay của mình là một bài thơ có vần như những gì đã thuộc nằm lòng: “Tre xanh, xanh tự bao giờ/ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh/ Thân gầy guộc, lá mong manh/ Mà sao nên lũy, nên thành tre ơi” (“Tre Việt Nam” – Nguyễn Duy); “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói/ Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi/ Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy/ Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu/ Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!” (“Bếp lửa” – Bằng Việt)…

Một hiện tượng xã hội, thẩm mỹ nào đó khi tồn tại một cách bền bỉ, mạnh mẽ, ắt hẳn có cơ sở văn hóa sâu dày của nó. Vần thơ chính là một hiện tượng như vậy. Nhiều người làm thơ có vần, điều đó cho thấy ký ức vần điệu đã hằn sâu trong tâm tưởng, vô thức của cộng đồng. Những gì đi chệch, phá vỡ cấu trúc vần nhịp này đều không phải là thơ hay, hoặc hay với người khác. Nhưng, cũng từ chính sự vững chắc của ký ức này, những hành động cách tân đã chú ý đến việc xóa bỏ vần để giải phóng các khả năng của tư duy và mĩ cảm thơ ca. Cùng với cảm thức mới, điệu sống mới là hình thức nghệ thuật mới, trong đó vần bị triệt tiêu như là một phương thức bày tỏ sự tự do. Và quả thực, với những bài thơ không vần, dường như chân trời mĩ cảm, suy tưởng được nới rộng thêm ra. Dẫu vậy, mỗi khi bắt gặp những bài thơ có vần, ta vẫn thấy thân thuộc như gặp lại cố nhân, với vẻ hài hòa, nhịp nhàng đã bước qua cả ngàn năm thơ Việt.

NGUYỄN THANH TÂM/ VNCA

Từ khóa: Từ khóa:  Cốt tử văn hóa,  của vần trong thơ,  Nguyễn Đình thi,  Nguyễn Thanh Tâm, 


Tin tức khác

· SỬ GIA PHÁP: CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÓ TẦM NHÌN XA VÀ NẮM BẮT THỜI CƠ LỊCH SỬ
· NHÀ THƠ PHẠM SỸ SÁU - NHỮNG NGƯỜI LÍNH BIẾT LỚN LÊN CÙNG DÂN TỘC
· MỘT GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU CỦA THƠ CA VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
· NGƯỜI NGHỆ SĨ MANG TÊN MỘT DÒNG SÔNG
· BÍ MẬT PHÍA SAU BỨC TRANH NỔI TIẾNG KHIẾN DƯ LUẬN PHẪN NỘ
· PHÁC THẢO VĂN HỌC HÀN QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI
· LIỆT NỮ TRẦN THỊ MINH - MÁ TRƯỚC CỦA TÔI
· TRẦN VÀNG SAO - GIỌT NƯỚC TRONG LÁ SEN -Tiểu luận KHUẤT BÌNH NGUYÊN
· VỊ TƯỚNG TÌNH BÁO TRONG VỎ BỌC CỦA MỘT GIÁO SƯ LẬP DỊ
· ANH ĐỈNH! - Tiểu luận PHÙNG VĂN KHAI
· LĂNG MỘ CỦA VUA LÊ THÁI TỔ Ở ĐÂU?
· BÀI THƠ 'QUÊ NHÀ' CỦA MÃ GIANG LÂN
· NGUYỄN VĂN DÂN - NGƯỜI GIEO HẠT TINH THẦN TRONG CÕI NGÔN TỪ
· THANH THẢO - THƠ CỦA MỐI TÌNH ĐẦU - Tiểu luận NGUYỄN THỤY KHA
· THI PHÁP CỦA THƠ NGẮN TRƯỜNG HỢP MAI QUỲNH NAM
· TIẾNG VIỆT ƠI, TIẾNG VIỆT NẶNG ÂN TÌNH
· NGƯỜI VIẾT 'CHIẾU THOÁI VỊ' CHO VỊ HOÀNG ĐẾ CUỐI CÙNG CỦA TRIỀU NGUYỄN
· BỨC THƯ CÓ MỘT KHÔNG HAI GỬI NGƯỜI ĐANG SỐNG
· NHÀ THƠ NGA EVGUENI EVTUSHENKO - 'TRONG ĐỜI TÔI CHỈ UỐNG RƯỢU LÀ NHIỀU'
· 188 NGÀY ĐẦU ĐỘC LẬP VÀ QUYẾT SÁCH CỦA BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ VÕ NGUYÊN GIÁP

Tin tức mới
♦ SỬ GIA PHÁP: CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÓ TẦM NHÌN XA VÀ NẮM BẮT THỜI CƠ LỊCH SỬ (01/09/2025)
♦ CHÙM THƠ ĐÔNG HOA - GIAM CẦM NƠI PHÙ HOA (01/09/2025)
♦ NHÀ THƠ PHẠM SỸ SÁU - NHỮNG NGƯỜI LÍNH BIẾT LỚN LÊN CÙNG DÂN TỘC (01/09/2025)
♦ MỘT GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU CỦA THƠ CA VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI (01/09/2025)
♦ THƯ VIỆN NHỎ TRONG LÒNG NHÀ LƯU NIỆM BÍCH KHÊ (01/09/2025)
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1736858
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 52723
Truc tuyen Trực tuyến: 3

...

...

Designed by VietNetNam