TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
DẪN NGỮ TRONG THƠ CỦA THANH THẢO
DẪN NGỮ TRONG THƠ CỦA THANH THẢO
Nguyễn Anh Tuấn
Thanh Thảo nói: “Tôi làm thơ như người câu cá, cứ giật vung mạng, đôi khi cũng được vài con rô, có khi chỉ được mấy chú… lòng tong. Kệ cha nó, mình cứ giật cho thoả, bản thân làm thơ đã là sướng rồi, mong gì thêm nữa!”(1). Có vẻ như nhà thơ Thanh Thảo tự thả lỏng mình khi sáng tác. Có vẻ như ông để mọi thứ khách quan dẫn dắt cảm xúc của mình. Nhưng, phải là người có nội lực đầy chủ động, có vốn liếng ngôn ngữ ở mức giàu có thì Thanh Thảo mới ung dung thả câu và “giật vung mạng” được những trường ca nổi tiếng.
13 trường ca đã xuất bản và trường ca thứ 14 đang nằm nhà in, trường ca “Hiển Thánh năm 25 tuổi”, viết về tấm gương hy sinh lẫm liệt của nhà cách mạng Trương Quang Trọng quê Sơn Tịnh-Quảng Ngãi. Trước nay đã có nhiều nhà nghiên cứu và bình luận văn chương “bắt gặp” được rất nhiều dấu ấn về cảm hứng dư năng lượng trong thơ Thanh Thảo. Riêng khảo sát tương đối sau đây tìm thấy trong thơ ông một phương tiện mà ông dùng đi “câu”, đó là cách dẫn ngữ vào thơ khá đặc biệt.
Dẫn ngữ là phương tiện tu từ ngữ nghĩa, bao gồm những tục ngữ, thành ngữ, danh ngôn, điển cố hoặc thơ văn có giá trị được dùng hòa lẫn vào lời nói đang được trình bày miêu tả để thay thế cho cách diễn đạt thông thường, trung hòa về tu từ học, nhằm làm cho lời nói thêm hàm súc, làm giàu hình tượng trong thơ văn.(2)
Trong văn chương, phương tiện tu từ dẫn ngữ được các nhà thơ, nhà văn sử dụng khá đa dạng, đa phần là sử dụng ở thể văn xuôi. Trong thơ cũng có thể nhận ra một số dẫn ngữ được trích dẫn nhưng đã được các nhà thơ làm “mờ hóa” bằng cách thêm bớt, hoặc dùng các biện pháp tu từ để “chuyển hóa”. Riêng trong các trường ca của Thanh Thảo, rất nhiều dẫn ngữ được ông đưa vào thơ một cách nguyên vẹn và trân trọng trong ngoặc kép, hay in nghiêng. Đó là một cách minh bạch bản quyền và cũng là dụng ý công khai làm tăng thêm giá trị trong sáng tác.
tới chân trời
xa lắc
chơi vơi
ai ơi
“còn trời còn nước còn non
còn cô bán rượu anh còn say sưa”
(Trường ca Chân đất)
“lấy anh em biết ăn gì
lộc sắn thì chát lộc si thì già”
nhưng thương quá biết làm sao khác được
có thể nào khác được nếu mình yêu
(Trường ca Những người đi tới biển)
Không biết đến ca dao của dân tộc mình chẳng khác nào úp mặt vào tường, nhất là những nhà thơ, nhà văn. Khả năng thạo ca dao của Thanh Thảo không biết ông đã vớt lấy từ “đám mây lưu trữ” nào mà có lai rai từ Nam chí Bắc. Trong trường caDạ, tôi là Sáu Dân, ca dao Nam bộ được Thanh Thảo lấy từ “đám mây” ấy đem ra dựng thêm bối cảnh cho câu chuyện kể. Đầu năm 1966, bà Trần Kim Anh (vợ của ông Võ Văn Kiệt ) và hai con là Phan Thị Ánh Hồng (8 tuổi) và Phan Chí Tâm (vừa mới sinh) đang cùng khoảng 100 người khác đi trên tàu khách Thuận Phong ngang qua vùng đất Củ Chi thì bị lính Mỹ đi càn. Con tàu Thuận Phong bị quân đội Hoa Kỳ bắn chìm. Tất cả người trên tàu vĩnh viễn nằm lại ở đáy sông, không tìm thấy xác. Lúc còn sống, ông Võ Văn Kiệt có một niềm mong ước, khi qua đời sẽ hỏa thiêu, tro của mình được rải xuống khúc sông, nơi mà hai người con và người vợ đã yên nằm.
hồn vợ con tôi nương náu
nơi nào
nửa khuya buồn nghe tiếng
quốc kêu
sao con tàu lại mang tên
Thuận Phong
sao vợ con tôi lại ngồi con tàu đó
“gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
về sông ăn cá về đồng ăn cua”
bây giờ ăn gì cũng vậy thôi
đâu còn vui nữa.
( Trường ca Dạ, tôi là Sáu Dân)
Trích dẫn ca dao, tất nhiên nhà thơ có lựa chọn, nhưng tài tình là chính những câu ca dao được trích dẫn ấy lại biết hòa mình cầm nhịp cho thơ, hoặc mở đầu câu chuyện. Đó là những gì mà nhà thơ đã làm được trong đoạn thơ mở đầu cho chương Chân cò trong trường ca Chân đất.
“con cò mày đứng một chân”
(có thể là ca dao)
thường thì cò đứng hai chân
nhưng dẫu đứng ba chân
kiếm cái ăn mỗi ngày mỗi khó
(Trường ca Chân đất)
Ông dạn dĩ mở ngoặc ngay một chú thích và rất lạ là câu chú thích trong ngoặc đơnấy cũng đủ sức tự mình đứng thành một câu thơ.
Rất nhẹ nhàng, dễ dàng và thành thạo, Thanh Thảo dẫn một câu hát ru của các bà mẹ vào trong thơ.
lời hẹn hò con gái con trai
là chén canh cá lóc
mẹ nấu cho tôi dưới hàng cây so đũa
là lời ru em nhẩm đọc vô tình
“ví dầu cầu ván đóng đinh
cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi ”
(Trường ca Những người đi tới biển)
Một câu hát ru khác, buồn thảm vận vào làng quê Sơn Mỹ, nơi có vụ thảm sát đầy man rợ của bọn lính Mỹ vào ngày 16/3/1968.
câu hát ru đến lòng ta chết điếng “chim bay về núi tối rồi không cây chim đậu, không mồi chim ăn”…
Ngôn ngữ trong thơ là những ngôn từ hàm súc, cô đọng nhưng đầy biểu hiện. Thơ của Thanh Thảo cũng không nằm ngoài khái niệm này. Tuy nhiên, ông tinh tế trong lựa chọn nguyên liệu ngôn ngữ và điêu luyện cách thức sắp đặt ngôn từ cho thơ mình. Ông như người nghệ sỹ đang đắm chìm trong cảm xúc, bỗng dừng lại thay vì châm điếu thuốc hay đứng dậy vươn vai, ông lại mở “hộc tủ ký ức” mình lục lấy những những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ đã đựng sẵn lâu nay trong hồn vía dân gian để đưa xen vào trong thơ và tiếp tục gõ phím sáng tác.
“bao giờ về lại nhà ta
ôm cây cột cháy cũng là thơm danh”
bây giờ che tạm trời xanh
nằm trên nền đất đắp chăn gió lồng
(Trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Ca dao hay hát ru thì có sẵn vần và nhạc điệu nên dễ bắt nhịp cho thơ, kể giùm hoặc phụ họa cho câu chuyện, nhưng không chỉ dừng tay ở đó, nhà thơ Thanh Thảo còn lấy cả thơ đưa vào thơ. Trong trường ca Những người đi tới biển, Thanh Thảo trân trọng đặt một câu của Văn tế thập loại chúng sinh vào một vị trí đắc địa.
dân tộc tôi khi đứng dậy làm người
là đứng theo dáng mẹ
“đòn gánh tre chín dạn hai vai”
Dân tộc là nhân dân, là người mẹ lao động lam lũ, là dáng cong hình đất nước. Nguyễn Du trong Văn tế thập loại chúng sinh cảm thông đến quặn đau cho người lao động, thân xác lầm lũi đầy chịu khó đến nát vai, chín thịt: “Cũng có kẻ đi về buôn bán/ đòn gánh tre chín dạn hai vai”. Thanh Thảo lại lấy chính câu đặc sắc ấy họa vào dáng người mẹ hiền, họa vào dáng thô tháp của một nhân dân cụ thể, họa vào dáng đứng dậy làm người một cách đầy hình ảnh của dân tộc mình. Nhân đây cũng có thể hiểu vì sao Thanh Thảo trân trọng, “thờ kính”Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du, bởi có lần nhà thơ Thanh Thảo đưa ra một nhận định rất riêng của cá nhân ông, là Văn tế thập loại chúng sinh có thế đứng cao hơn cả truyện Kiều. Có lẽ Thanh Thảo hay suy tư về nhân dân!?
Cao Bá Quát, một nhà thơ ngang tàng và ông đã có thơ về Quảng Ngãi. Nhà thơ Thanh Thảo đã từng đọc nhập tâm bài thơ Trà giang thu nguyệt ca của Cao Bá Quát qua bản dịch tuyệt vời của GS Vũ Khiêu. Còn trong trường ca Chân đất, Thanh Thảo lại dẫn một câu trong bài Sa hành đoản ca của Cao Bá Quát.
hết miên man sông Trà lại lòng vòng đảo Bé
mỗi dốc cao xe chó kéo như lùi
“khách bộ hành nước mắt tuôn rơi”.
Tất nhiên mọi dẫn ngữ vào thơ mình, Thanh Thảo đều chọn những cái đắc ý, những cái mang sự ẩn chứa nặng trịch, sung túc năng lượng ngôn từ.
“thấy việc nghĩa không làm là đồ bỏ”
kìa đám quan đang khiếp hãi tháo thân
những xiêm áo mũ cánh chuồn tơi tả
bỗng xoáy vào nhà thơ như nước xoáy
cả niềm tin vua sáng tôi hiền
cả hy vọng nước nhà thịnh trị
cả giấc mơ huy hoàng cuối truyện Lục Vân Tiên
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
“Thấy việc nghĩa không làm là đồ bỏ”, dịch từ câu “kiến nghĩa bất vi vô dũng dã” để “xoáy” vào tâm trạng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đang nghe “cơn giận dữ thiêng liêng” của tổ quốc trước cảnh giặc Pháp ngạo mạn xâm phạm bờ cõi.
Thơ của Thanh Thảo ít vần nhưng đầy nhịp điệu. Theo ông, nhạc điệu có thể thay đổi và có thể mất dần đi, nhưng nhịp điệu thơ thì không thể mất, dù có thể khác. Nhịp điệu nó là phần nội tại của thơ, của bài thơ, của nhà thơ. Mỗi nhà thơ đúng nghĩa phải có nhịp điệu thơ của riêng mình. Và nhịp điệu ở đây, theo ông rộng hơn nhịp điệu (rhythm), nó bao gồm cả giọng điệu (tone) và cả thêm một cái gì đó nữa. Nó là dòng chảy của mỗi một nhà thơ. (3)
Đừng nghĩ bản thân mình nhiều quá
Mà biết sẻ chia với tấm lòng
“Để làm gì em có biết không ?
Để gió cuốn đi
Để gió cuốn đi…”
Tôi yêu người nhạc sĩ ấy
Người cho tôi nếm trải
( Trường ca Dạ, tôi là Sáu Dân)
Khi thơ và nhạc giao hòa, nhà thơ tỏ ra hào phóng mở cửa thơ nghênh đón những ca từ. Không những thế, những ca từ vốn đã quyện chặt trong nhạc khi bước vào ngạch cửa của lãnh địa thơ thì nhạc lại trả công bằng cách bắt nhịp cho thơ.
“tuốt gươm thiêng vung cho nước nhà
khiến dân Việt no ấm tự do…”
cơn bão trở lại
“cùng nhau đi hồng binh
liều thân cho đời sướng
mong thế giới đại đồng…”
cơn bão trở lại
không ai cãi vã
không ngập ngừng
từ biển và từ núi
những ngọn sóng mặt trời
chúng ta đi
cơn bão quét những vùng tối tăm trên mặt đất
(Trường ca Bùng nổ mùa xuân)
Khí thế của đấng nam nhi nước Việt và cơn bão trở lại, không chịu nô lệ và cùng nhau nhịp bước “một hai…đi một hai” để diễn tả câu chuyện của những du kích Ba Tơ (Quảng Ngãi) đứng lên cùng dân địa phương làm cuộc khởi nghĩa Ba Tơ 11/3/1945, bùng nổ mùa xuân. Không gì hùng khí bằng những bước chân người khởi nghĩa trong nền nhạc cứu quốc. Không gì hay bằng thơ được lồng theo bản nhạc đầy hào khí để bắt nhịp cho “âm thanh bật thành tiếng nổ”. Một tài tình trong sử dụng phương tiện tu từ dẫn ngữ của Thanh Thảo.
Hiệu quả của một buổi bỏ công đi câu (thơ) có thể là con cá rô, hay chỉ là lòng tong như Thanh Thảo đã khiêm tốn, nhưng một vài khảo sát nhỏ trên đây để bổ sung rằng, nhà thơ Thanh Thảo là một cần thủ rất dư dã dụng cụ (ngôn ngữ) để đi câu và ông đi câu ngẫu hứng theo một nguyên tắclà: Không có một nguyên tắc nào cả!
NAT. 10/4/2018
(1), (3) Trích dẫn Nguyễn Đức Tùng, phỏng vấn Thanh Thảo, Thơ đến từ đâu;
(2) Khái niệm về phương tiện tu từ dẫn ngữ của giáo sư Đinh Trọng Lạc.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.