TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
ĐÔI NÉT VỀ TRƯỜNG CA NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY-NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI
ĐÔI NÉT VỀ TRƯỜNG CA NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY-NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỂ LOẠI
LƯU KHÁNH THƠ
Trong quá trình phát triển của mình, nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng đều vận động theo những quy luật nội tại đầy hứng thú. Các thể loại hình thành, phát triển và đạt được thành tựu thường phải tạo nên những giá trị, những khuôn mặt trong những hình thức ổn định. Mặt khác, mỗi thời đại đều đòi hỏi những hình thức thức mới phù hợp với trình độ tư duy và thẩm mỹ của mình.
Lâu nay, trong nghiên cứu phê bình văn học chúng ta thường gặp thuật ngữ trường ca dùng để chỉ những tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Quan sát sự vận động của thể loại trường ca trong đời sống văn học có thể thấy rằng từ sau 1975, đặc biệt là từ thời kỳ đổi mới đến nay, trường ca phát triển theo hướng trữ tình, tâm lý, triết lý, yếu tố cốt truyện giảm xuống, các cảm xúc cá nhân thường được đặt trong liên hệ với những sự kiện lớn của lịch sử, của đất nước.
Những cơ sở chúng tôi căn cứ vào để xác định thể loại ở đây là: nội dung, đối tượng phản ánh, phương thức thể hiện, hình tượng trung tâm và âm hưởng chủ đạo của tác phẩm. Đó cũng là những đặc trưng cơ bản nhất khi đi vào nhận diện thể loại. Và chúng tôi cũng muốn từ điểm nhìn này để góp thêm một cách tiếp cận với một số trường ca về đề tài chiến tranh và người lính những năm gần đây. Cũng xin được nói ngay rằng với sức đọc và sự lựa chọn hạn chế của cá nhân trong khuôn khổ một bài viết, không thể khái quát một cách đầy đủ diện mạo của thể loại trường ca - một thể loại mà khi “dấn thân” vào, nó đòi hỏi người viết phải trường hơi, trường sức và trường vốn. Chúng tôi cũng xin không nhắc lại ở đây những tác phẩm trường ca đã được khẳng định và bàn bạc khá nhiều của các nhà thơ Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đức Mậu...
Chưa bao giờ nhu cầu đi tìm một tiếng nói riêng lại được đặt ra cấp thiết như hiện nay. Thơ trước đây cũng mỗi người một vẻ, nhiều giọng điệu, nhưng đó là sự phong phú, đa dạng của một nền thơ thống nhất trên cùng một cảm hứng trữ tình công dân, còn hiện nay sự đa dạng về giọng điệu xuất phát từ nhu cầu khẳng định cá tính và nhận thức hiện thực thông qua số phận cá nhân. Tác giả của các bản trường ca về đề tài chiến tranh giữ nước hầu hết đều là những người trong cuộc, là những người lính gắn bó với chiến trường. Những gì mà họ phản ánh trong trường ca đều là những điều mắt thấy tai nghe. Họ đã từ hiện thực chiến tranh để viết về chiến tranh với biết bao cung bậc cảm xúc. Trong thời chiến các nhà thơ phần lớn thường có tâm thế hướng ngoại khi nói về nhân dân, đất nước cùng với những sự kiện có tầm vóc lịch sử. Trữ tình cá nhân đã nhường chỗ cho trữ tình công dân nên tác phẩm trường ca thường mang dáng vóc và âm hưởng sử thi. Thời kỳ hậu chiến, hiện thực chiến tranh vẫn là nguồn cảm hứng vô tận của những nhà thơ mặc áo lính, nhưng giờ đây khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo đã cho người viết được khai thác và thể hiện đến tận cùng mọi cảnh huống ngặt nghèo, bi đát nhất của chiến tranh. Chiến tranh được tái hiện trong dòng hồi ức kỷ niệm của ý thức và cả phần vô thức, Giọng điệu một số bản trường ca có khuynh hướng thiên về chất trữ tình triết lý, chiêm nghiệm; cốt truỵên như trong trường ca truyền thống không còn là điều quan trọng, nhưng bao giờ yếu tố tự sự cũng có vai trò nổi bật. Chủ thể sáng tạo không chỉ đóng vai trò là người thư ký trung thành của thời đại mà còn là người phát ngôn của cộng đồng thông qua tiếng nói cá nhân. Về điều này nhà thơ Thanh Thảo đã nói đến trong bài viết: Từ đêm mười chín nghĩ về anh hùng ca và trường ca in trên Tạp chí Thơ số 6/2006 “Ai sẽ nói thay họ trong khoảnh khắc, trong sự mong manh…nếu không phải là nhà thơ. Nâng cây đàn lyre của vô thức tập thể, nhà thơ hiện đại có thể sững sờ khi những dòng thơ của mình bỗng trào lên nhiều giọng điệu, nhiều tiếng nói, và tự nhiên nó có hình thức của một phức hợp nghệ thuật” như trường ca.
Khảo sát qua một số tác phẩm có thể thấy rừ hơn những đặc điểm này. Trong trường ca Gọi nhau qua vách núi của Thi Hoàng số lượng các phần, các trang viết về chiến tranh không nhiều nhưng khá ấn tượng. Phần thứ nhất Hoa với chuyện của ba người và chuyện của nhiều người là phần có nhiều sáng tạo. Ba chữ cái A.B.C đã được tác giả sử dụng cho ý đồ nghệ thuật của mình rất hiệu quả. Có khi đó là hình ảnh cụ thể của người lính thời chống Mỹ:
Có một đám tang chỉ có ba người
Kể cả người đã chết
Trong góc rừng miền tây xa tít tắp
Nước trong lòng suối lặng lờ trôi
Chiều lạnh và trong như ngàn vạn
mảnh thuỷ tinh tan vỡ
Những giọt nước mắt khô long lanh sắc cứa
A và B khóc C trong một tổ ba người.
Có khi đó là biểu tượng mang tính ước lệ, là anh, là tôi, là những người còn sống hoặc đã khuất:
A.B.C thành một cánh rừng rồi
Cánh rừng yêu thương lá tìm lá đan cài vấn vít
- A là anh tôi như thể là B
Mình thực có hay là không có thực
Mình đang sống hay là mình đã chết
Chết rồi hay vẫn sống như ta?
Ở phần chín - phần cuối cùng của trường ca, lại được đặt tên A.B.C (hay là tiếng gọi). ở đây A.B.C không còn là những mẫu tự vô tri trong hàng chữ cái mà đã được hoá thân trong nhiều dạng thức mới.Chiến tranh được soi chiếu bằng một cái nhìn sắc lạnh, tỉnh táo của người trong cuộc nhưng đã có một khoảng cách thời gian sống trong ho# bỡnh. Những gian khổ, mất mát của chiến tranh được hồi tưởng: Chúng tôi đi qua - Đi qua - Nỗi sợ hãi để lại sau lưng một khoảng tối om - Sự gian khổ ấn xuống hai vai bằng đôi tay một gã khổng lồ - Niềm thương mẹ nhớ em cũng có lúc hoá thành dao sắc - Cắt vào thịt da - Dãy Trường Sơn rùng rùng sốt rét - Những viên bi của bom bi đỏ máu đồng đội lăn qua ngực mình - Mắt mờ đục đói ăn tóc khô xác tưởng chừng bẻ gãy - Đường độc đạo một đi không trở lại.
Và số phận cá nhân trong cuộc chiến tàn khốc này mang một vẻ đẹp đầy bi tráng:
Tôi hai mươi như nước lũ
Bom đạn nổ tung con đập, nước tràn bờ
Tôi - Giản ước đến tận cùng để còn lại chính tôi
Tôi nổ súng!
Tôi là hạt cứng đanh chưa nảy lá
Chiến tranh dẫm lên trầy vỏ đã bao lần.
Cũng giống như Gọi nhau qua vách núi, trường ca Ngày đang mở sáng được kết cấu theo mạch tư tưởng - cảm xúc. Toàn bộ tác phẩm là một dòng tâm trạng gắn với các tình huống, các sự kiện và các mối quan hệ tình cảm. Nhân vật trữ tình đóng vai trò chủ đạo trong tác phẩm chính là cái tôi của nhà thơ. Ở đây cảm xúc trữ tình đã được kết hợp với năng lực tích tụ những trải nghiệm cá nhân của một người lính đã từng tham gia chiến trận. Hiện tại và quá khứ đan xen nhau từ trong đáy sâu của tiềm thức như một niềm ám ảnh không dứt. Trường ca gồm có 11 khúc, mỗi khúc lại có nhiều đoạn khác nhau. Mỗi khúc của trường ca có cấu tạo độc lập, mối liên hệ giữa các phần khá “lỏng”, có thể thay đổi vị trí cho nhau cũng không làm ảnh hưởng đến cấu trúc tác phẩm.
Nhà thơ tham gia, tác động vào kết cấu bản trường ca với tư cách là nhân vật tâm trạng. Do đó cái tôi của nhà thơ luôn đứng ở bình diện thứ nhất để tạo ra không khí cho toàn bộ tác phẩm. Nó xuất hiện từ Khúc I trong tâm thế:
Tôi hào phóng tung những con thuyền cất giấu trong mơ
Bay mãi mãi về phía mặt trời bí ẩn.
Cho đến khúc cuối cùng:
Tôi qua những cánh rừng núi đồi
tới bờ biển và sa mạc lạ
Những dấu chân bất an
Ký ức sáng trên vầng trán người đạo sĩ già
ẩn cư miền cao Yên Tử
Chòm râu phơ phất ưu tư.
Đêm đêm giấc mơ trở về
Người đạo sĩ chống cây gậy trúc
chỉ tay về phía biển Đông
Mặt trời đang mở sáng…
Có thể thấy ở đây “cơ chế giấc mơ” đã hoàn toàn ngự trị tư duy hướng nội và mạch cảm xúc của nhà thơ.
Về phương thức biểu hiện của trường ca, chúng ta thường thấy có sự kết hợp giữa trữ tình và tự sự. Trữ tình thường bộc lộ những suy nghĩ và cảm xúc của chủ thể sáng tạo; tự sự phản ánh khách thể, tạo nên mọi dáng vẻ, đường nét của hiện thực. Ở trường ca Ngày đang mở sáng cảm xúc trữ tình của nhân vật tôi có phần nổi trội, lấn át việc miêu tả hiện thực. Hay nói một cách chính xác hơn là hiện thực đã được soi chiếu và dẫn dắt bởi mạch cảm xúc của nhà thơ. Cũng có thể xem đây là một sự “phá vỡ” về mặt thể loại. Chiến tranh luôn đè nặng trong tâm thức của mỗi người lính đã từng tham gia cuộc chiến. Khúc V của bản trường ca là một hồi ức rách xé, đau đớn về chiến tranh và sự thật bi thảm này đâu dễ được tái hiện khi chiến tranh đang tiếp diễn
Kẻ thất trận dưới chân đồi lê bước
Kéo hoàng hôn rã rời
Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc
Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau.
Trường ca Sông Mê Công bốn mặt của Anh Ngọc lại được kết cấu theo hệ thống chủ đề. Trường ca với độ dài hơn hai nghìn câu, được tổ chức thành bảy chương, mỗi chương được chia thành nhiều khúc, đoạn khác nhau. Mối liên hệ giữa các chương rất linh hoạt, có thể thay đổi vị trí mà vẫn không làm ảnh hưởng đến cấu trúc tác phẩm.
Vấn đề nổi bật trong trường ca là hiện thực của đất nước Campuchia trong thời kỳ đang xảy ra thảm hoạ diệt chủng và cuộc hồi sinh của toàn dân tộc. Tỏc giả viết về Campuchia nhưng cũng chính là để viết về những vấn đề quan thiết của dân tộc mình, viết về những suy tư, trăn trở của chớnh mình.
Thế mạnh và sức hấp dẫn của tác phẩm phần lớn nằm ở vốn hiểu biết tổng hợp của tác giả đối với đất nước và con người Campuchia. Anh hiểu khá sâu sắc nền văn hoá lâu đời của đất nước Chùa Tháp. Ở Chương I mang tiêu đề Nụ cười bốn mặt với những khúc ca ru dưới bóng A ng Co các thủ pháp nghệ thuật được sử dụng linh hoạt. Phương thức tự sự và trữ tình cùng tác động lẫn nhau, làm cái nền cho những chương sau này phát triển.
Có thể tìm thấy không khó khăn gì những đoạn thơ hay, những câu thơ sắc sảo lột tả được cái thần của đất nước vốn có nền văn minh vào bậc nhất.
Và từ đây
đất Campuchia mỉm cười chào thế giới
bằng nụ cười bốn mặt của Bay on
bốn niềm vui phảng phất cặp môi cong
bốn câu hỏi ném về bốn hướng
không gian xám màu tư tưởng
thời gian xanh lớp rêu in
... ở đâu nỗi buồn hoá đá
ở đây đá hoá nỗi buồn
... mười thế kỷ qua đây thành thoáng chốc
những dâu bể qua đây thành chớp mắt
chỉ lặng yên trên mặt đá vững bền
nụ cười ấy còn nguyên
Ở chương này, bên cạnh những câu thơ giàu chất trí tuệ và có sức khái quát như vậy là những câu thơ phóng túng và táo bạo:
anh xin được trở về thời bé bỏng
thả con thuyền trôi dọc tiếng ru
gối đầu lên lồng ngực đá mộng mơ
anh đi tìm giấc ngủ
giấc ngủ ngon ở dưới hai bầu vú
anh hoá giầu sang như ngự giữa một lâu đài.
Cả dân tộc Campuchia sau những đêm dài chết chóc đang chuyển mình sống dậy. Trong cuộc đời mai này, chắc chắn họ sẽ không quên những người lính Việt Nam đã hy sinh xương máu để giành lại cho họ quyền được sống làm người. Những chiến sỹ tình nguyện Việt Nam có một cách hiểu như thế này về Tổ quốc: “Tổ quốc xa vời, Tổ quốc lại kề bên, từ phút này Tổ quốc có hai tên - Việt Nam, Campuchia anh gọi”. Các anh đã để lại trên mảnh đất Campuchia cả cuộc đời mình, cho những vòm thốt nốt mãi xanh tươi, cho điệu múa ápsara không bị giam cầm trong bóng tối". Cũng bởi vì lẽ đó mà tác giả của trường ca Sông Mê Công bốn mặt đã dành cho người lính tình nguyện những câu thơ xúc động, những tình cảm mến thương trân trọng nhất:
Tháng Giêng này bạn có tới Phnôm Pênh
xin hãy ghé thăm nghĩa trang quân
tình nguyện
... Họ trẻ lắm những người nằm dưới đó
áo binh nhì xanh suốt tuổi đôi mươi
viết dòng thư cho mẹ dưới sao trời
chắp nối bao điều chợt quên chợt nhớ.
Giọng điệu trữ tình đó sau này lại được Anh Ngọc sử dụng khá hiệu quả trong trường ca Sông núi trên vai, viết về những cô gái trong đoàn vận tải H50 ở miền cực Nam Trung bộ.
Có một bản trường ca cũng lấy hình ảnh những người con gái làm nhân vật trung tâm và điểm độc đáo hơn là tác giả của nó cũng là một người phụ nữ. Tôi nói độc đáo vì trong làng thơ nữ của chúng ta hiếm có người dám thử bút ở thể loại này. Trên tinh thần đó trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây đã ghi một dấu ấn trong sự phát triển của thể loại.. Lê Thị Mây hoàn thành bản trường ca vào năm 2002. Tác phẩm như một đoạn phim hồi tưởng sinh động về tiểu đội 12 cô gái thanh niên xung phong tóc đuôi sam, mũ tai bèo, tuổi 18, 20 trên các cung đường ác liệt của Trường Sơn. Nhà thơ Vũ Duy Thông đã viết đầy cảm xúc và trân trọng: “Lửa mùa hong áo là trường ca con gái. Hiện lên trong khói sương và bất chợt ùa ra vây quanh ta là tiểu đội mười hai cô gái thanh niên xung phong…trong đó có cô thanh niên xung phong Lê Thị Mây ngày nào trong đời thật và trong sự thăng hoa của nghệ thuật thơ ca…Đọc Lửa màu hong áo, tôi vẫn gặp vẹn nguyên những cảm xúc chân thành của người trong cuộc suốt những năm tháng cả nước đánh giặc”. Trường ca được chia thành 17 chương với hơn hai nghìn câu thơ, chủ yếu là thể thơ tự do có đan xen một số phần lục bát. “Chất con gái” in đậm trong toàn bộ bản trường ca. Từ cách lựa chọn hình ảnh, chi tiết đến cảm xúc, âm điệu. Từ tình đồng đội gắn bó keo sơn chia ngọt sẻ bùi khi còn sống cho đến khi về nơi cát bụi. Từ những suy nghĩ lớn lao đến những tình cảm đời thường dung dị nhất…đều mang vẻ đẹp nữ tính. Ngay ở Khúc dạo đầu nhà thơ đã dùng giọng điệu tâm tình để trò chuyện với người đã khuất;
Xin các chị cho em nén giữ trong lònG
Làn hương sả bắt đầu từ ký ức
Mười sáu mười bảy tuổi ai không náo nức
Mong được rời nách áo mẹ ra đi
Tiếng núi sông thăm thẳm rầm rì
Không lời trối trăng chị dìu em qua cái chết bàng hoàng
Tên các chị, khuôn mặt các chị em
chưa biết hết
Nhưng nhịp dập của tình yêu tha thiết
Làm tổ trong ngực em tựa tằm nằm trong kén
Nong tơ vàng giàn giụa mỗi ngày đêm
Vuông lụa thắm mênh mang hồn thiếu nữ
Vệt tóc đuôi gà ngẫy nắng mượt sang thu…
Ở chương cuối của trường ca với tên gọi Vọng khúc Trường Sơn đã miêu tả sự hy sinh của những người con gái mở đường một cách giản dị mà không kém phần thiêng liêng, bi tráng.
Tôi muốn dành phần cuối của bài viết này để nói về Metro, trường ca mới nhất của nhà thơ Thanh Thảo - một trong những tác giả có thành tựu lớn ở thể loại trường ca thế hệ chống Mỹ. Qua các bản trường ca của Thanh Thảo có thể thấy rõ một điều anh là người rất mê tìm tòi đổi mới cấu trúc. Khối vuông ru bích là một thành công và Metro lại là một thể nghiệm mới mang hơi hướng hậu hiện đại. Nỗi ám ảnh chiến tranh và ký ức Trường Sơn như một mạch ngầm vẫn từng giờ từng phút len lỏi trong đời sống hôm nay. Những sợi dây vô hình nhưng có sức nặng ghê gớm đã liên kết những ý nghĩ ngỡ như tản mạn, bất chợt của nhà thơ thành một mối liên kết khó tách rời. Những mảnh vụn của tiềm thức cứ chập chờn đan xen giữa quá khứ và hiện tại dưòng như đã trở thành tâm thức của con người thời hiện đại.
Điều này chứng tỏ đến một thời điểm nhất định của hoàn cảnh lịch sử xã hội, các nhà thơ có ý thức cách tân, có một tay nghề đã trải qua thử thách luôn cần phải có những hướng tìm tòi khai mở nhằm tạo nên sự phong phú đa dạng về mặt thể loại cho nền thơ của chúng ta. Đồng thời đó cũng là một cách để làm mới gương mặt của chính mình.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.