TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ NGUYỄN HƯNG HẢI
HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ NGUYỄN HƯNG HẢI
Đỗ Nguyên Thương
Khi cầm trên tay tờ lịch vừa bóc, thật ngẫu nhiên, tôi bắt gặp câu thơ “Tờ lịch nào cũng tờ lịch đầu tiên” trong bài thơ “Trước một tờ lịch mới” của nhà thơ Nguyễn Hưng Hải. Thật thú vị vì đó là một cách nói khác so với triết lý “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông” của Heraclit.
Với niềm cảm hứng của một người yêu thích thơ ca, tôi mải miết đọc thơ Nguyễn Hưng Hải và nhận ra rằng có những con người chỉ một tập thơ hoặc một bài thơ đã thành danh và không thể sáng tác thêm được nữa. Với Nguyễn Hưng Hải, chỉ một tập thơ Ban mai chóng mặt (1990) đã thành danh nhưng anh còn tiếp tục, tiếp tục đến giờ đã là 9 tập thơ (Như tôi được biết). Điều đó phản ánh độ sung sức, nhưng trước hết, nó phản ánh niềm say mê, say mê kết hợp cùng năng khiếu để đem lại cho đời những bài thơ, những vần thơ tinh túy và giàu sức ám ảnh.
Và, khá nhiều trong số những vần thơ tinh túy và giàu sức ám ảnh ấy tác giả dành viết về hình ảnh người phụ nữ. Đó là tình cảm dành cho bà nội, bà ngoại, cho mẹ, cho các em gái, cho vợ và con gái thương yêu của mình, nhưng nhờ sức khái quát nội tại mà những hình ảnh đó được nâng lên thành hình tượng đẹp trong thơ ca viết về người phụ nữ Việt Nam.
Tuổi thơ Nguyễn Hưng Hải được gần kề bà nội khá nhiều, được bà yêu thương, chăm bẵm. Khi bà không còn nữa, kí ức của nhà thơ về bà đượm buồn mà đẹp biết bao! Khi đi học xa, phải trọ học, xa nhà, tác giả luôn mong cuối tuần về bên bà: Cả tuần cháu nhớ thương bà/ Ngồi bên bậc cửa nhìn ra chân trời/Mẹ nghèo cháu được bà nuôi/ Nước mắt chảy ngược đừng cười ngày xưa.
Anh thương bà ngoại, kính trọng bà ngoại bởi nỗi bà sinh ra mẹ anh, chăm chút cho mẹ anh và các dì của anh nữa, họ đều lấy chồng gần nhưng “Có thương mẹ đã mấy khi ngủ cùng”. Anh ngậm ngùi trước tình cảnh mẹ mình đông con, chẳng có thời gian chăm chút cho bà ngoại, thậm chí ốm đau bà ngoại lại phải chăm “Ốm đau bệnh tật chẳng đừng, Bà thương mẹ cháu tay bưng tay chùi”. Và nhìn cảnh tượng đó, nhà thơ thêm thương mẹ, thương bà của mình hơn:Thương bà, thương mẹ ở gần/ mà đôi khi mới một lần thăm nom/ khổ vì mẹ cháu đông con/ biết thương bà khéo chẳng còn mà thương.
Không thể phủ nhận đó là những vần thơ triết lý và ngập tràn cảm xúc, đã là quy luật, không ai tránh được vòng đời “sinh, lão, bệnh, tử”. Hôm nay gần bên bà, tận hưởng tình yêu thương chăm chút của bà, nhưng một ngày không xa “/ biết thương bà khéo chẳng còn mà thương” là điều có thật. Ấy vậy mà, sự thật này đã không ít người nhận ra, để rồi phải ân hận…
Bên cạnh việc thể hiện tình thương bà, thương mẹ như lẽ thường với đạo đức của người con có hiếu, anh còn thể hiện tình thương yêu với người vợ thảo hiền qua một số bài thơ, câu thơ. Trong đó, không thể không kể đến bài thơ “Đời lắm lúc phải đùa”. Mở đầu bài thơ người đọc đã cảm nhận được ngay trách nhiệm và tình thương anh dành cho vợ “Không có buổi chiều nào ta không lo cho em”, một năm có 365 ngày, có 365 buổi chiều và chiều nào cũng lo cho vợ, vì lẽ gì vậy, không thể không tò mò. Và, đó cũng là cách thể hiện tình cảm rất độc đáo, mang dáng nét riêng của Nguyễn Hưng Hải, không thể trộn lẫn trong số ít các bài thơ tặng vợ trên thi đàn xưa, nay. Thi sỹ lo bởi nỗi: “nắng lo xơ mái tóc/ mưa lo bạc ấm mềm/ đường đen đỏ ác - hiền đi kiếm sống/ suốt cả ngày nườm nượp ngỡ đi chơi.
Không chỉ lo nhan sắc vợ phôi phai theo năm tháng vì những lo toan gánh vác việc gia đình, anh còn lo bởi nỗi đường phố đông người, nhiều bất trắc. Lo bao nhiêu lại mong bấy nhiêu: Mong bụi bớt lầm/ Xe em không xẹp lốp/Bao lạng lách, tạt sườn mong tránh được/Sao đã dừng còn bị húc đằng sau?
Mong thế dường như chưa đủ, anh còn: Mong bụi đường ở lại phía sau xe/Dừng trước cửa đúng giờ/Như đúng giờ mỗi ban mai khóa cửa/Ta và em hai ngả kiếm cơm chiều?
Làm thơ là năng khiếu nhưng chỉ riêng năng khiếu không đủ để làm thơ.. “Thơ là tiếng lòng” không thương yêu, không lo lắng cho vợ không thể có được những câu thơ giàu tình yêu thương như thế.
Không chỉ thương vợ, anh còn thương các em gái “Đi lấy chồng xa”. Âu cũng là quy luật, lúc bé anh em tụ họp trong một nhà, được đong đầy tình thương của cha mẹ qua mỗi giấc ngủ, qua mỗi bữa ăn. Cuộc sống có thể còn khó khăn, đói nghèo về vật chất nhưng tình yêu thương luôn ăm ắp tràn đầy. Lớn lên, con gái phải lấy chồng, sang nhà người khác, đó cũng là quy luật nhưng sao không thể ngậm ngùi khi chia xa, mong nhớ: Đầu còn những trấu cùng tro/Nhà mình thì bỏ, đi lo nhà người/Nhớ em đũa mẹ hay rơi/Bố thì ngủ sớm… bà ngồi thâu đêm.
Và, căn nhà như rộng thêm ra khi các em đi lấy chồng: Mấy gian nhà lá mênh mông/Anh ân hận đã có lần đánh em.
Đó quả là những vần thơ ngập tràn cảm xúc và tình thương yêu!
Với con gái anh có bài thơ “Viết cho con gái” với tựa đề “Cho con gái Hải Yến yêu quý”. Với con trai anh có bài thơ “Rồi đến lúc làm cha con sẽ biết” với tựa đề “Cho con trai Mạnh Tuấn yêu quý”. Đó chỉ là hai trong số rất nhiều thơ anh dành tặng các con. Bài thơ nào cũng chan chứa tình yêu thương và nỗi niềm lo lắng. Với con trai là “Rồi đến lúc làm cha con sẽ biết”, ngay từ nhan đề đã là lời nhắn nhủ, và những vần thơ tự do như những cung bậc cảm xúc dâng trào trong lòng người cha rất mực thương yêu con cái, thương nhưng không chiều chuộng, thương nhưng phải rèn giũa để mai sau con lớn nên người: Không phải cứ thương con cha chu cấp nhiều tiền/sáng đi học /chiều về chơi điện tử/Không phải cứ thương là chiều con mọi thứ/để con đi không biết giờ về.
Và, quan trọng hơn nữa, thương con là phải giúp con tự đứng vững trên đôi chân của mình, mai sau này, đời có thể nhiều phong ba, sóng gió, con vẫn mạnh mẽ, tự tin vững bước vào đời:
Không có người cha nào thương con không thường trực nỗi lo
Nhưng không phải vì lo mà không dám buông tay để con tự đứng
Với các con, anh chia đều tình yêu thương nhưng khi làm thơ tặng con gái, như một lời nhắc nhủ riêng, chỉ bảo riêng và lo lắng riêng thì nỗi lo (tín hiệu vàng của tình thương yêu sâu nặng) được nhắc nhiều hơn. Điều đó cũng là hợp quy luật tình người, tình đời của người Việt Nam truyền thống, con trai, nếu muốn có thể sống chung một mái nhà với cha mẹ cả đời, con gái lớn phải lấy chồng: Rồi mai khăn gói theo chồng/Rủi may nước mắt cậy trông nhà người.
Lo sau này con đi lấy chồng có gặp được người tử tế, cuộc đời có suôn sẻ để con được “Một sông, một bến, một đò” hay không? Phận con gái, lúc bé trong vòng tay chở che của cha mẹ, khi lấy chồng còn do duyên phận, “Ở chùa thì được thơm hương, ở ao nhỡ đục bố thường lo xa” … Đúng là phận làm cha, làm mẹ, suốt đời không hết nỗi lo, trong mắt cha mẹ, con cái lúc nào cũng nhỏ bé, cần được nâng niu, cần được chở che “Một đời cha biết bao giờ hết thương”. Cảm xúc nhân văn chỉ có được từ con người nhân văn, trân trọng tình người, tình đời. Thương con gái bao nhiêu lại canh cánh nỗi niềm lo lắng: Thương con nhiều lúc thở dài/Nhỏ nhờ cha mẹ, lớn ngoài tầm tay/Mong cho phúc đức đặn đầy/Gái trai cũng một lòng này chở che
Đọc thơ Nguyễn Hưng Hải, tôi muốn nói với con trai, con gái của anh rằng, chỉ riêng việc các cháu được làm con của một người cha có suy nghĩ trước sau, sâu sắc và nhân hậu như thế đã là phúc đức đặn đầy rồi đấy!
Qua các câu thơ, bài thơ về bà, về mẹ, về vợ và con gái, thấy rất rõ tình yêu thương chân thành, sự cảm thông sâu sắc với nỗi vất vả của đời người phụ nữ xưa và nay. Phụ nữ xưa mang vẻ đẹp truyền thống cần cù, chăm chỉ, chịu thương, chịu khó, hết lòng phụng sự gia đình, hy sinh thân mình vì chồng vì con một cách tự nguyện, coi đó là bổn phận, là trách nhiệm. Phụ nữ ngày nay, kế thừa truyền thống xưa nhưng có nét đổi mới vì sống trong một thời đại khác, người vợ vẫn đảm đang việc nhà nhưng còn phải lo việc nước (cơ quan, đoàn thể). Xã hội ngày nay, thời buổi kinh tế thị trường, bên cạnh nét ưu việt là những tồn tại đáng lo ngại. Chẳng thế mà mỗi ngày vợ đi làm là mỗi ngày thi sỹ lại lo lắng với tư cách của người chồng đầy trách nhiệm. Vợ ra đường lo mưa ướt áo, lo nắng xơ mái tóc, lại lo nỗi kẹt xe và rủi ro, bất trắc… chỉ đến khi vợ về nhà an toàn thì thi sỹ mới an lòng.
Điểm một số bài thơ qua hai tập thơ Ban mai chóng mặt và Viết cho con gái, của Nguyễn Hưng Hải, có thể thấy thơ của anh đã sử dụng khéo léo và thành công nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, sử dụng các hình thức liên tưởng, so sánh, sử dụng tứ thơ, ngôn ngữ, chất liệu hình ảnh thơ dân gian với lối diễn đạt giản dị, trong sáng và giàu sức biểu cảm. Tất cả nhằm góp phần làm nổi bật vẻ đẹp hình tượng người phụ nữ Việt Nam.
Đọc thơ anh, thêm một lần ta cảm nhận thấm thía những vần thơ giàu ý nghĩa:
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.