TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
LÀNG VIỆT NAM: 'LÀNG TÔI' CỦA VĂN CAO - Tiểu luận THANH THẢO
LÀNG VIỆT NAM: 'LÀNG TÔI' CỦA VĂN CAO - Tiểu luận THANH THẢO
TỪ: Vanvn-Cập nhật ngày: 27 Tháng chín, 2024 lúc 07:57
Một trong những tác phẩm âm nhạc để đời của Văn Cao là ca khúc Làng tôi được ông sáng tác trong kháng chiến chống Pháp.
Một khi làng quê đã đi vào âm nhạc, thì nó gợi cho người Việt tình yêu thương, trước hết với ngôi làng của mình, rồi sau đó với nhiều ngôi làng khác mà mình đã sống qua, đã đi qua.
Ca khúc của Văn Cao không định danh ngôi làng, nhưng ai nghe bài hát cũng nhớ về ngôi làng quê của mình, như một góc riêng tư của ký ức.
Như có lần Văn Cao về thăm và dự đêm nhạc của mình tại quê hương Nam Định, khi lãnh đạo tỉnh đề nghị ông sáng tác một bài hát cho quê hương Nam Định, ông đã cười và bảo: “Bài hát Làng tôi chính là tâm huyết của tôi viết cho quê hương đấy”.
Nghĩa là người Việt khi nghe bài hát này đều thấy rõ đến ám ảnh hình bóng quê hương mình qua âm nhạc và ca từ.
Lũy tre làng ở xã Nghĩa Lạc, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (Ảnh Cù Hiền)
Với người Việt Nam, mỗi khi nhắc tới chữ “làng” là nhắc tới những gì cực kỳ gắn bó, cực kỳ thân thiết với mình, dù làng mình đã có từ nghìn năm trước hay mới có trăm năm nay, làng mình đã thấm sâu vào cuộc đời mình, trở thành máu thịt của mình, không sao quên được.
Chính vì thế, mỗi khi nhạc sĩ có được giai điệu đầu tiên hát về làng mình, nhà thơ có được câu thơ đầu tiên viết về làng mình, thì tác phẩm âm nhạc và thơ ấy đều rất hay, nghe và đọc rất thấm thía.
Nếu Văn Cao “sinh tôi ra đã có Hải Phòng” mở đầu trường ca Những người trên cửa biển, thì ca khúc Làng tôi của ông không viết về Hải Phòng, không hẳn viết về Nam Định nhưng người Hải Phòng hay Nam Định đều cảm thấu bài hát ấy viết về chính quê hương mình.
Với ngôi làng miền Bắc, là làng Công giáo, thì tiếng chuông chiều buông gợi lên bao cảm xúc. Âm thanh tiếng chuông chiều nghe giống nhau, nhưng tâm trạng mỗi người nghe lại mỗi khác.
Cũng như lũy tre làng, nhìn thì lũy tre làng nào cũng giống nhau, nhưng khi hình ảnh ấy đi vào thơ nhạc, thì mỗi người đọc hay nghe lại có “cõi riêng” của mình về lũy tre ấy. Thu vào mỗi cảm xúc riêng tư, và tỏa rộng ra thành cảm xúc của cộng đồng, hình ảnh làng quê chúng ta tồn tại như vậy đó.
Với ngôi làng miền Bắc, là làng Công giáo, thì tiếng chuông chiều buông gợi lên bao cảm xúc (Ảnh Cù Hiền)
Tôi đã nghe đi nghe lại nhiều lần bài hát Làng tôi của Văn Cao, mỗi lần nghe lại có những cảm xúc không hoàn toàn giống nhau.
Đó là khi một ca khúc hết sức tuyệt vời tạo những rung cảm như những đợt sóng trong ta, sóng thì giống nhau nhưng mỗi đợt sóng lại mỗi khác.
Bồi hồi và hân hoan, ngân rung và nao nức, ấy là lúc Làng tôi chuyển điệu, như tiếng reo vui của dân làng, như niềm hy vọng về một ngày mai thái bình. Làng lại về với hình ảnh xưa cũ của mình, thương yêu và gần gũi biết bao nhiêu.
Xin giới thiệu lại những ca từ của bài Làng tôi, ca từ thật giản dị mà đầy cảm xúc của nhạc sĩ – nhà thơ Văn Cao:
Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban chiều
Tiếng chuông nhà thờ rung
Đời đang vui đồng quê yêu dấu
Bóng cau với con thuyền, một giòng sông…
… Làng tôi cùng đoàn quân chiến thắng,
Đánh tan lũ quân thù về làng xưa.
Dân tưng bừng chặt tre phá cầu,
Cùng lập chiến lũy đào hào sâu.
Giặc chưa tan chiến đấu không thôi,
Đồng quê chào đón ngày mai.
Văn xuôi viết về LÀNG một kiểu, còn âm nhạc hát về LÀNG một cách, kiểu và cách ấy đi song song với nhau, bổ sung cho nhau. Như khi ta đọc Chí Phèo của Nam Cao viết về làng Vũ Đại, rồi ta chuyển qua nghe Làng tôi của Văn Cao hát về một ngôi làng Việt Nam dịu lành và bất khuất. Cũng là làng đấy, giống nhau đấy mà khác nhau, nỗi đau của Chí Phèo thời nô lệ khác rất nhiều với nỗi đau:
Nhưng thôi rồi còn đâu quê nhà
Ngày giặc Pháp tới làng triệt thôn.
Và khi người dân làng chứng kiến cảnh:
Đường ngập bao xương máu tơi bời
Đồng không nhà trống tàn hoang.
Thì lòng căm thù trỗi dậy, đó là lòng căm thù của cả một dân tộc: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” (Hồ Chí Minh – Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp – 12.1946).
Làng Vũ Đại của Chí Phèo là ở thời Pháp thuộc, còn Làng tôi của Văn Cao là ở thời kháng chiến chống Pháp. Hai ngôi làng ấy giống nhau ở người dân, mà khác nhau cũng ở người dân.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.