TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
MẸ VÀ EM - LINH HỒN TRONG “SƯƠNG KHÓI NẺO QUÊ” CỦA NGUYỄN MINH DŨNG
MẸ VÀ EM - LINH HỒN TRONG “SƯƠNG KHÓI NẺO QUÊ” CỦA NGUYỄN MINH DŨNG
Hoàng Thuỵ Anh
Việc đánh giá và khẳng định sức bền, tên tuổi của một nhà thơ tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: số lượng tác phẩm, bài thơ hay, ấn tượng, mối quan tâm của người đọc… Con đường đi đến thành công của mỗi nhà thơ không ai giống ai. Có người thành công và khẳng định được mình chỉ qua một bài thơ nổi tiếng. Có người lại “tất bật” cả cuộc đời nhưng dấu ấn để lại không mấy khả quan… Bởi, nghệ thuật không có chuẩn mực nhất định để đánh giá vì nó vận hành theo vòng xoáy ốc của sự phát triển và tuỳ theo tầm đón đợi của người đọc qua mỗi thế hệ. Quy chiếu vào hành trang thơ của Nguyễn Minh Dũng, Nếu “Hoa cao su”[1] “ấm áp, chan chứa tình người, tình đất” (theo đánh giá của Phạm Minh Dũng) thì “Sương khói nẻo quê”[2] vẫn tiếp theo lộ trình ấy nhưng trọng tâm tình cảm và hình ảnh thơ chủ yếu dành cho Mẹ và Em. Tình cảm sâu nặng, chân chất với Mẹ và Em thấm đẫm hầu hết 79 bài thơ. Đó là chất xúc tác, là men nồng làm nên giá trị nhân văn trong “Sương khói nẻo quê”.
Hình ảnh mẹ trở đi trở lại khá nhiều trong tập thơ. Nhờ những liên tưởng đầy sáng tạo, tác giả có thể bổ sung, gia tăng ý nghĩa cho thi ảnh. Công việc đồng áng luôn là tâm điểm nỗi nhớ mẹ của hầu hết các nhà thơ. Mỗi người mỗi vẽ. Nguyễn Ngọc Tiến nhớ hình ảnh mẹ lúc đang “dọn rẫy gieo trồng”: “Con nhớ Mẹ năm nào/ Cũng mùa này/ Mẹ dọn rẫy gieo trồng/ Mùi hun khói trôi bồng trong kí ức…/ Tuổi thơ của con” (Viếng hương mộ mẹ nhân ngày rằm). Nguyễn Tiến Đường thổn thức, tiếc nhớ: “Liêu xiêu bóng mẹ ven đê/ Mẹ như đếm được bốn bề tháng năm…/ Rạ rơm lót đệm đêm nằm/ Mẹ như ấm lại trong làn khói nhang” (Chân dung). Nguyễn Minh Dũng lại ấn tượng nhất là bờ vai chở đầy nắng, mưa, gió của mẹ. “Vai nắng” đong đầy bao nhiêu vất vả, lo toan của mẹ:
Có tấm áo vá hoài vẫn... rách
Thương bờ vai - rực nắng bốn mùa
Ngày bàng hoàng nghe nhịp võng đưa
Thương nhớ mẹ - rưng rưng câu hát
(Vai nắng)
Chân dung mẹ còn được hiện lên bằng những lát cắt kí ức: “Có một nỗi buồn biêng biếc xưa - sau/ Ôm dáng Mẹ liêu xiêu đồi núi/ Tiễn… tiễn… con…/ Dịu vợi…/ Bốn ngàn năm - giòn giã - nhịp trống đồng” (Có một nỗi buồn); “đôi thúng trên vai – âm thanh nhún nhảy/ cong vòng ngày tháng” (Khung trời mẹ)… Bóng mẹ liêu xiêu tiễn con mà “dịu vợi” khôn nguôi trong lòng con, tái tê cả không-thời gian. Đôi thúng mẹ gánh cho kịp chợ thôn cũng bần thần cả tâm trí nhà thơ. Đôi thúng cong vì nặng trĩu những thứ mà mẹ gánh trên “vai nắng” nhưng cũng trĩu nặng gian khổ quanh năm suốt tháng của mẹ. Chỉ điểm qua một vài chi tiết mà Nguyễn Minh Dũng như thấu hết sự tần tảo, bươn chải, hi sinh thầm lặng của mẹ. Không chỉ dành tình cảm cho mẹ mà nhà thơ còn dành tình cảm cho cha: “Nhớ cha - trời đất thèm chút nắng/ Nhớ cha gió lạnh buốt đầu non” (Nhớ cha). Nỗi nhớ cha được so sánh ngầm với nỗi khát nắng của trời đất. Vắng cha, cái lạnh lẽo trong tâm hồn con như cái lạnh buốt đầu non. Tứ thơ không mới nhưng vẫn lôi cuốn bởi sự thành tâm của con đối với cha. Dòng chảy yêu thương ấy không bao giờ cạn. Nhưng với nhà thơ, nếu chỉ giãi bày như thế thì chưa đủ và thi ảnh chưa thực sự sâu đậm, chưa gây được sự chú ý của người đọc. Ở đây, ông còn bất tử tình cảm với mẹ, với cha bằng cách đan cài nỗi nhớ của ông vào tình yêu truyền thống văn hoá, văn học của dân tộc. Mẹ, cha là nguồn sống của quê hương. Tình mẹ, tình cha hoà trong tình quê hương:
Cảm ơn câu lục của cha
Câu bát của mẹ quyện hòa buồn – vui
Quê hương ơi! Lục – bát ơi!
Tụng ca ngày tháng - bờ nôi nắng chiều
(Lục - bát tụng ca)
Viết về mẹ, về cha, nhà thơ dành hết thảy tình cảm, lòng yêu thương, sự kính trọng, viết về em - nàng thơ, nhà thơ như dốc hết, trút hết cái tình của mình. Nhà thơ sẵn sàng đánh đổi giấc ngủ của mình để có được những phút giây, khoảnh khắc bên nàng dù chỉ trong cơn mộng:
Đêm giấu mình lặng thinh
Con mắt nào tinh tú
Anh một đời mất ngủ
Mộng du trên chân nàng
(Con mắt nào)
Khi tình cảm đến độ say mê, tình yêu dâng trào, nhà thơ mạnh bạo khẳng định:
Cố giấu mình trong vỏ ốc mượn hồn…
Dám cả gan
Tiếm quyền thượng đế
Để
Yêu
Em
Một thượng phẩm tối cao cất giữ chốn địa đàng – lũ rắn sẽ giết anh?!
Đặc ân ban cho
Vâng, anh sẽ chết
Gối đầu vào ngực em
Tu oa…!
(Đặc ân cho anh)
Ở đây, những câu thơ ngắn, có dấu hiệu của sự vắt dòng đã phát huy hiệu lực. Cụm từ “để yêu em” được bẻ làm ba câu thơ ngắn, ngắt nhịp lẽ cách quãng, liên tiếp tạo độ nhấn quan trọng nhất cho bài thơ, đồng thời khẳng định, tuyên ngôn khát vọng chân thành của nhà thơ. Và đó cũng là lý do cho việc nhà thơ sẵn sàng đón nhận cái chết nếu được bên em.
Tình yêu bao giờ cũng có khoảng cách. Khoảng cách để tình yêu tồn tại. Khoảng cách để nhân đôi niềm tin và hạnh phúc. Nhưng Nguyễn Minh Dũng lại muốn rút ngắn khoảng cách để có được em. Ông chọn lối đi cho tình yêu mình: con đường tắt. Tuy nhiên, sự đời lại không như mong muốn. Nó luôn mang đến những yếu tố và dư vị của sự bất ngờ. Vì vậy, lối tắt để gần nhưng cũng là lối tắt chia xa. Lối tắt không gian không thể hoá giải lối tắt tình yêu: “Tôi đi lối tắt để... gần/ Để về kịp lúc qua sân nhà nàng/ ... Vào đời lối nhỏ dìu anh/ Chân tôi khẽ chạm dấu chân của nàng/ Một hôm/ Tim nát/ Ngỡ ngàng!/ Khoảng sân nhà ấy - ngập tràn pháo hoa/ Lẽ nào.../ Người lại.../ Đi xa...?/ Tôi về lối tắt/ Hoá ra muộn màng!” (Lối tắt).
Cái đặc biệt của Nguyễn Minh Dũng là ông biết tôn tạo hình ảnh của mình. Không tôn tạo hình ảnh bằng con đường đa nghĩa, bằng những cuộc đứt gãy về mặt ngôn từ mà ông tôn tạo hình ảnh bằng sự đồng điệu, đan cài giữa tình quê hương với đấng sinh thành:
Mẹ và Em anh nhạt nhoà Em với Mẹ
Đón tuổi xuân - chiến cuộc trườn qua
Biêng biếc Cha cùng Em lẫn vào hoa lá
Mai em thơ kiêu hãnh chuyện cội nguồn
(Đất mẹ có môi hôn)
Mẹ-Em-Em-Mẹ-Cha-Em là cuộc gắn kết lớn khi nhà thơ thắt buộc vào đầu mối quan trọng: cội nguồn. Vì thế, hình ảnh mẹ và em/cha và em trở thành linh hồn, dòng máu của quê hương. Đấy là những con người gây dựng nên quê hương. Mồ hôi và nước mắt của họ đã ngấm sâu vào quê hương, nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ và biết bao thế hệ.
Trong tập “Sương khói nẻo quê”, số lượng bài thơ tự do, phá cách không nhiều. Vẫn còn một số bài vận dụng thể thơ cũ và bút pháp cũ, chưa có tinh thần đổi mới, cách tân thơ. Tuy nhiên, với tập “Sương khói nẻo quê”, Nguyễn Minh Dũng đã tạo được “một góc nhìn riêng” cho thơ mình. Ông sử dụng một số từ ngữ đặc sản của từng vùng (chơn thật, tiếng đờn, răng rứa, chừ, chi...) góp phần định hình gương mặt của từng miền quê. Cách nói ngược cũng được đưa vào thơ vừa tạo diện mạo thơ của mình vừa tạo được sự đối thoại khá hợp lý với phong cách nhà thơ Bùi Giáng. Bên cạnh đó, âm hưởng dòng văn học dân gian được chuyển tải khá nhuần nhuyễn (ca dao, truyền thuyết...)... Những thủ pháp này giúp ông hoà nhập tình yêu con người trong tình yêu quê hương, tình yêu con người trong tình yêu truyền thống văn hoá văn học một cách tự nhiên, dung dị.
“Sương khói nẻo quê” mở muôn nẻo đường đi. Tiếp nhận theo chiều hướng nào là tuỳ thuộc vào khả năng đọc của mỗi độc giả. Con đường này mới chỉ phác thảo một vài vấn đề. “Sương khói nẻo quê” của Nguyễn Minh Dũng vẫn còn nhiều khoảng trống cần được người đọc khám phá, .
Đồng Hới, ngày 19-6-2011
H.T.A
-----------------
[1]. Nguyễn Minh Dũng, Hoa cao su, Hội văn học nghệ thuật Bình Dương, 2004.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.