TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
NGUYỄN ANH NÔNG ĐỐI THOẠI VỚI TRƯỜNG SƠN
NGUYỄN ANH NÔNG ĐỐI THOẠI VỚI TRƯỜNG SƠN
PGS.TS. NGUYỄN THANH TÚ
Xương sống của trường ca là truyện, thịt da của trường ca là thơ. Chất thơ trong thơ Nguyễn Anh Nông thường thấy ở câu thơ bảy chữ: Trường Sơn dằng dặc xôn xao nắng/ Mây trắng nghìn năm cứ phập phồng… không mới, không đặc sắc nhưng có duyên…
Nhà thơ Nguyễn Anh Nông
Ấn tượng ban đầu của tôi về Trường caTrường Sơn của Nguyễn Anh Nông là không thích, thứ nhất vì ngay cái tên mà theo tôi, lẽ ra chỉ cần hai tiếng Trường Sơn là đủ, thêm vào hai chữ Trường ca vừa lặp âm (trường) vừa mất đi tính hàm súc gợi mở cần thiết; thứ hai vì đọc ở mục lục thấy có lời cây cầu, lời con đường… là không sáng tạo bởi ở trường ca Biển của Hữu Thỉnh cũng đã có lời của sóng, lời của đảo… và gần đây trong tiểu thuyết Rừng thiêng nước trong của Trần Văn Tuấn cũng có các tên chương là lời của dòng sông, lời của gió… rồi. Nhưng càng đọc kỹ vào bên trong thế giới hình tượng của tác phẩm thì ấn tượng ấy dần mất đi, mặc dù nó có lý. Điều gì đáng đọc, đáng suy ngẫm ở trường ca này?
Thi phẩm là bản hợp âm của lời. Viết về Trường Sơn đã có quá nhiều người đi theo lối tả thực, lối tả hiện thực khách quan của một điểm nhìn. Cứ viết theo cách này sẽ không tránh khỏi lặp, mòn sáo, Nguyễn Anh Nông chọn cách bộc lộ cảm xúc của nhiều người, tức có nhiều trường nhìn cùng hướng về một đối tượng. Do vậy tác phẩm là sự đa giọng, tôi gọi là sợ hợp âm của lời. Năm chương đầu là lời của người lính trở về Trường Sơn thăm chiến trường xưa, giọng hồi tưởng tự hào vẫn là chủ âm nhưng xen nỗi ngậm ngùi nhớ tiếc:
Con đường dang dở hôm nao
Em ơi, gồng gánh biết bao vui buồn
Bài ca mưa nắng xanh tuôn
Máu xương đồng đội mạch nguồn núi sông.
Không nhớ sao được vì kỷ niệm sống chết của một thời trai trẻ, không tiếc sao được vì mình thì còn sống mà bao đồng đội chung một chiến hào chung một niềm vui… đã nằm lại. Đến chương VI là sự tái hiện bước hành quân của người lính thời đánh giặc, được diễn tả qua câu thơi hai chữ và cách sử dụng rất nhiều thanh trắc với âm vực cao để nói về sự khó khăn vất vả mệt nhọc.Có đoạn toàn thanh trắc:
Gió thốc
Nắng sém
Tóc cứng
Miệng khát
Họng rát
Mắt chói
Bụng đói…
Rồi tiếp đó là lời một người con, lời một nhà thơ, lời căn hầm dã chiến, lời cây cầu tạm, có cả lời của kẻ đào ngũ kể về ngày hôm qua và lời một em bé, lời một già làng ở ngày hôm nay. Rất nhiều giọng vang lên mang sắc thái quan niệm suy nghĩ khác nhau nhưng điều châu tuần về một Trường Sơn thiêng liêng, không đơn thuần là một địa danh, mà đó là lịch sử, là ý chí, là niềm tin… của một thời đánh giặc, để tạo lên một tổng phổ về Trường Sơn. Chính đặc điểm này đã tạo ra chất đối thoại rất rõ của tác phẩm.
2. Điểm tự chủ yếu của cảm xúc là văn hóa đại ngàn Trường Sơn. Đây là trường ca về chiến tranh nhưng không trực tiếp nói đến chiến tranh nên âm hưởng anh hùng ca không phải là âm hưởng chủ đạo. Nó không thể lấy những trận đánh, những cảm hứng đầy dũng khí đánh giặc làm cái tứ để triển khai hình tượng và biết tìm đến một điểm tựa vững chãi thích hợp là văn hóa. Đây là một lựa chọn thông minh. Chúng ta thắng giặc, có nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân cơ bản, chủ yếu là nhờ chúng ta có một nền văn hóa rất đáng tự hào. Không chỉ nhờ sức mạnh hôm nay để chiến đấu mà còn được tiếp sức từ Vạm vỡ ngực trần Đam san/ Dịu dàng ánh mắt Hơ Nhí.. từ Mái nhà Rông ngân nga tiếng chiêng… từ rượu cần vít cong niềm vui/ Lời khan ủ men thấp thỏm… hình như nhờ được dinh dưỡng từ văn hóa ấy mà con người khỏe mạnh, sống giữa thiên nhiên:
Quờ tay gặp ánh trăng
Vơ vào trong gió nắng…
3. Có chất thơ, cảm xúc, có dư âm. Thể loại trường ca là một cuộc hôn nhân đẹp của thơ và truyện, thơ thì phải có chất thơ (không nên đổi mới quá đà như có trường hợp hôm nay đưa văn xuôi vào quá nhiều làm mất đi chất thơ), truyện tức là có câu chuyện, cốt là truyện. Xương sống của trường ca là truyện, thịt da của trường ca là thơ. Chất thơ trong thơ Nguyễn Anh Nông thường thấy ở câu thơ bảy chữ: Trường Sơn dằng dặc xôn xao nắng/ Mây trắng nghìn năm cứ phập phồng… không mới, không đặc sắc nhưng có duyên. Gợi được cảm xúc từ trường ca là hình ảnh nén hương trầm của người yêu còn sống trong ngày giỗ người yêu đã chết, là hình ảnh cánh bướm hồn trinh nữ… dư âm ở những chi tiết gợi nhớ về quá khứ, đừng quên quá khứ như lời cây cầu ngậm ngùi vì hôm nay chỉ là cục sắt chơ vơ chẳng ai để ý trong khi ngày hôm qua là anh hùng…
4. Đây là một trường ca gợi nghĩ tuy nó vẫn còn vụng về ở cách tạo chữ, đặt câu thông thường. Có cái gợi nghĩ của nó là nhờ đề tài, nhớ cái tình của người viết và nhất là nhờ cách biết tạo ra một hợp âm của lời vọng vào người đọc.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.