TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
NGUYỄN ĐĂNG TRÌNH - GIỌNG QUẢNG VÀ MỘT HỒN THƠ RỘNG MỞ
NGUYỄN ĐĂNG TRÌNH - GIỌNG QUẢNG VÀ MỘT HỒN THƠ RỘNG MỞ
29/08/2022 09:26:53 PM
MAI BÁ ẤN
Khi viết bài này, tôi chưa gặp Nguyễn Đăng Trình bao giờ, chỉ bắt gặp anh trên những trang thơ. Mới đây, qua giới thiệu của nhà thơ Trần Thị Cổ Tích, tôi được trực tiếp tiếp xúc với Nguyễn Đăng Trình cũng chỉ qua… những bài thơ Cổ Tích gửi đến. Nghe đâu, anh là người Quảng Ngãi nhưng rời quê lang bạt tận phương Nam. Thơ anh đã từng được bạn đọc chú ý từ thời trước 1975 ở văn học Miền Nam.
(Nhà thơ Nguyễn Đăng Trình)
Cái cuộc bể dâu trong trường đời, trường tình của anh được thể hiện bằng một phong cách thơ vừa cổ điển lại vừa rất trải đời của một kẻ “hoang đàng”, ham dong ruổi. Và cho dù cuộc thế có phủ bao nhiêu lớp hồng trần, “con ngựa thơ” ấy vẫn thong dong đi cho dù có “vẹt gót bạc bờm” vẫn cứ “hí vang” những lời thơ đắc chí:
ngựa hoang ruổi vó đăng trình
bụi hồng lãng đãng nhẹ tênh gánh đời
còn dài nửa cuộc rong chơi
quan san nghìn dặm một trời cỏ thơm
ngày sau vẹt gót bạc bờm
ngoảnh về tàu cũ ngoác mồm hí vang… (Ngựa hoang).
Đúng là những câu Lục bát rất “già tay” với một tâm thế an nhiên và một hồn thơ rộng mở, sạch trong giữa dặm dài dong ruổi.
Điều đặc biệt mà đọc thơ Nguyễn Đăng Trình ai cũng dễ dàng nhận ra là, cái lời ăn tiếng nói bình dân xứ Quảng rất đặc trưng được anh “tung hê” một cách hứng thú, say mê và mang lại hiệu quả nghệ thuật rất cao. Ngôn ngữ “đất cục” và cách nói “toàn toạt” của người bình dân Quảng Ngãi đã mang lại một hiệu ứng mạnh làm nên “khí chất” thơ anh. Đó là cái “mới rợi” của những cuộc tình:
Từ ngày tôi em sông suối
Biển rừng thả vó rong chơi
Cuộc tình quanh năm mới rợi
Bốn mùa tôi chẳng cần phơi (Bắn em về phía nghìn trùng).
Là cái “bạt tai” tự trừng trị vì sự ngu ngốc của chính mình:
Như vừa lăn ra khỏi chiêm bao
Nghe trái tim đang tầm xuân trong ngực
Tôi muốn bạt tai mình cho đỡ tức
Xưa quá ham chơi suýt mất cuộc tình (Gặp lại tháng giêng).
Đó là cái tuổi thọ “ngắn ngủn” của những “con chữ” không diễn đạt nổi tình người:
Một bài thơ ngày nào tôi cũng viết
Đã nửa trăm năm chưa được câu nào
Những con chữ ngo ngoe liền giãy chết
Như sao băng ngắn ngủn thoáng đời sao (Có một bài thơ)
Đây là những câu thơ đọc lên ta thấy rõ một số phận với tất cả những trở trăn và cũng rất thẳng thắn, trung thực khi lột tả tâm trạng của chính mình với những ngôn từ chính hiệu xứ Quảng:
Mãi mò mẫm giữa lòng đêm cuộc chiến
Chừng sáng ra thì bước trật bước trìa
Đời đã thế đời coi như trớt huớt!
Về làng xưa yên phận gã nhà quê
Họ hàng cũ có thân mà chẳng thuộc
Chuyện xưa sau thành kẻ đứng bên lề
Nhiều lúc thấy ươn hèn không thể tả
Sống cứ như đang tự tử từng ngày
Sao chẳng được như con tôm con cá
Giữa ao hồ sông biển tự do bơi!
Một bài thơ ngày nào tôi cũng viết
Viết không xong lảm nhảm mãi thành kinh
Quá đỗi vô tâm em đâu thèm biết
Tôi lưu vong trên chính cố hương mình (Có một bài thơ).
Đưa được những từ “trật trìa”, “trướt hướt” vào thơ để “phơi ra” thực nhất tâm trạng của chính mình thì quả là một tài thơ đáng khâm phục. Không biết gốc gác của anh có liên quan gì đến Quảng Nam không, mà đọc thơ anh, tôi có cảm giác anh đã vượt qua được cái thế “co” của Quảng Ngãi để lấn đà qua cái “cãi” rất bướng bỉnh và nói “tòe loe cho thỏa” rồi “quên tuốt luốt” cho xong của khí chất Quảng Nam:
Lòng rối lên từng chặp bâng khuâng
Khi ánh mắt đắm vào ánh mắt
Mùi hoa trái làm đêm thơm ngát
Làm tôi quên tuốt luốt mùi đời (Gặp lại tháng giêng).
Cứ như thế, lời ăn tiếng nói Quảng cứ tự nhiên như người nông dân chưa kịp phủi đôi chân trần từ đồng đập cục đêm trăng, leo thẳng lên “phản thơ” đánh giấc một cách rất vô tư. Hãy nghe anh nói về ký ức với những “rình coi”, “núp”, “u đầu còn sướng”, “hườm”, “giú” rất Quảng này:
1. Bên bờ suối ta rình coi em tắm
Có vầng trăng đồng lõa núp trên mây
Em mắc cỡ vớt lên hòn đá… Ném…
Ta u đầu còn …sướng tới hôm nay
2. Năm ấy vườn rừng hư mùa thị
Đủ hái cho em hai quả mới hườm
Em ích kỷ giú sau lần túi ngực
Ta đứng thèm… nghe trời đất vùng thơm (Ký ức rừng)
Rồi nào là “mua miếng tình”, “loanh quanh riết”, “mừng ra mặt”, “cứ hí hửng”, “ vác con diều”…
trái tim ta vốn rất thâm trầm
nhưng thi thoảng nó bật òa tiếng hát
và hôm nay bỗng dưng mừng ra mặt
suốt cả ngày cứ hí hửng làm thơ… (Trái tim thơ)
ngôi trường cũ nghe đâu giờ đã khác
còn đó không hàng phượng với cây bàng
khoảng trời nào trong veo chiều tan học
vác con diều rong chạy khắp thôn trang
bé ngày xưa sớm xa thời con gái
vui hay buồn cái số lấy chồng xa
nhớ em quá những mùa trăng Thiên Ấn
xin giữ giùm tôi chút gió sông Trà (Xin giữ giùm tôi chút gió sông Trà).
Lại có những “cụm thơ” đặc sệt những lời người bình dân giao tiếp hàng ngày với “chiều cao mét sáu”, “và nói chung”, “giã gạo đời nhau”, “một ông đầu hói” , “lọt mẹ xuống cầu”…
tình cờ gặp lại em chiều quán nhậu
vẫn như xưa hai con mắt biết cười
vẫn thon thả với chiều cao mét sáu
và nói chung nhìn phải ngẩn ngơ người
tôi bước vào em lững thững bước ra
luôn giã gạo đời nhau là thế đấy
sóng đôi em là một ông đầu hói
mắt tôi cay xè không xót mà xa
mắt trợn trừng bắn theo lời rủa ác
em qua sông xe lọt mẹ xuống cầu
kịp thấy tội tôi tát tôi một tát
vái xe em đừng lọt bất kỳ đâu… (Thảng thốt Riverside night)
Tất cả đó cứ lững thững bước vào thơ Nguyễn Đăng Trình tự nhiên như thớ ruộng cày lật lên dưới nắng. Còn đọng lại trong sâu thẳm hồn thơ là một tấm lòng rộng mở, bao dung, an nhiên và độ lượng cho dù có bị đời, bị tình rẫy ruồng, phụ bạc đến chừng bao:
có rồi không các em ta vẫn sống
bởi trên đầu còn rộng khoảng trời yêu
tập trái tim bốn mùa luôn độ lượng
biết đâu mai nhận lại một đôi điều (Nửa đời chưa hiểu hết các em).
Có nhận lại được đôi điều gì ở “các em” không thì tôi không biết, nhưng tôi chắc, anh đã nhận lại được rất nhiều điều khi trãi thật lòng mình ra những trang thơ…
Nhưng thôi! Mọi lời phân tích thơ cũng không bằng mời các bạn đọc thẳng vào những bài thơ của Nguyễn Đăng Trình.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.