TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
NGUYỄN ĐÌNH THI - NHÌN LẠI TỪ HÔM NAY
NGUYỄN ĐÌNH THI - NHÌN LẠI TỪ HÔM NAY
TS. Đoàn Trọng Huy
Nguyễn Đình Thi là người đã sống, hoạt động văn nghệ, có vị trí, vai trò quan trọng trong thế kỷ XX. Sự nghiệp của ông gói trọn trong thế kỷ với hơn 60 năm trên mặt trận văn nghệ, với một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ đáng là ao ước của một đời nghệ sỹ.
Nguyễn Khải trong một bài viết gần đây có điều chỉnh lại cái “chân dung phù phiếm” bên ngoài của ông để nhìn ra hình ảnh, tầm vóc thực sự của một chiến sĩ - nghệ sĩ (1). Chia sẻ đồng tình, bài viết này góp phần làm rõ thêm cốt cách và gương mặt anh minh đích thực của Nguyễn Đình Thi.
Nhiều người đã đặt một chữ “nếu như”, “giá như” cho cuộc đời Nguyễn Đình Thi với ý tiếc nuối cho sự nghiệp một nhà văn - nghệ sĩ tài năng. Nguyễn Khải cho rằng Nguyễn Đình Thi: “đã lưỡng lự quá lâu trong lựa chọn giữa cái hiện tại và cái mai sau, những việc phải làm do trách nhiệm công dân, trách nhiêm đảng viên và những việc phải hoàn thành bởi trách nhiệm của nhà văn”. Và có tính toán khá cụ thể, rành rọt: giá như Nguyễn Đình Thi có 20 năm từ bỏ được “thế giới quan trường” chỉ để viết, hoặc một nửa số ấy thôi: “Mười năm là hai mươi ngàn trang, gạch xoá loại bỏ một nửa thì cũng còn mười ngàn trang, là hai mươi cuốn sách, mỗi cuốn khoảng năm trăm trang! Viết được như thế mới thật hả, không uổng cái tài tạo hóa đã ban cho”.
Đấy là một kỳ vọng, không riêng gì của Nguyễn Khải, nhưng sự đời đâu có thế, lịch sử vẫn là lịch sử, làm sao có một chữ “giá như”. Hãy xét cuộc đời như nó vốn có. Hồ Xuân Hương cũng đã “ví như đổi phận” để mơ ước một “sự nghiệp anh hùng” lớn lao! Đấy chỉ là một cách nói. Bản thân cuộc đời và sự nghiệp của nữ sĩ đã là lớn.
Số mệnh văn nghệ, số mệnh cá nhân muốn rằng Nguyễn Đình Thi phải là người như thế. Là người suốt đời gánh trên vai hai việc đạo (viết) và việc đời (hoạt động cách mạng) và phải nặng gánh đôi bên trên hành trình của mình, không được bên trọng bên khinh. Thực ra người gánh có thể đổi vai tuỳ lúc (vai phải, vai trái) hoặc đổi bên gánh (đổi quang, đổi thúng). Ấy là ví một cách nôm na. Sự thực thì làm cái này (lãnh đạo) để thực hiện một cái kia (sáng tác), cả hai hỗ trợ nhau, cắt nghĩa cho nhau.
Ta đã biết, Nguyễn Đình Thi là người đã được sự lựa chọn của dân (trong đó có giới văn nghệ là chính), của nước (đại diện là Đảng và Chính phủ) ở tất cả các thời kỳ, các giai đoạn của cách mạng. Nói rộng ra, đó là con người đã được lựa chọn của lịch sử qua quá trình đào luyện. Cũng như lịch sử đã chọn đúng. Tố Hữu, Huy Cận và Nguyễn Đình Thi ba người trẻ tuổi có tài năng văn nghệ để lãnh đạo văn nghệ. Đó là bộ ba có tính chất lí tưởng phải tụ lại với nhau để gánh vác trọng trách: Tố Hữu công tác Đảng, Huy Cận làm việc ở Chính phủ, Nguyễn Đình Thi hoạt động ở đoàn thể. Tất nhiên đó là cái nhìn đại thể vì thực ra Nguyễn Đình Thi cũng có công tác Đảng trong văn nghệ. Và cả ba “ông trùm” văn nghệ ở ba vị trí ấy đều phải gánh vác trọng trách suốt đời. Tất nhiên vai trò quan trọng có khác nhau, tuy đều là quan chức cao cấp (quan văn!) trong văn nghệ.
Số phận buộc Nguyễn Đình Thi đã phải là người như thế.
Trước hết, nói một cách chung nhất là do áp lực của thời thế.
Thời thế là tổng hợp của thời (thời kỳ lịch sử, giai đoạn cách mạng) và thế (tình thế, xu thế của cuộc sống, của nhân tâm). Một người được lựa chọn xứng đáng là đáp ứng được yêu cầu của thời thế. Với tư cách và nhân cách một nhà văn chiến sĩ - nghệ sĩ, cách mạng cần, Nguyễn Đình Thi chỉ một lời đáp có mặt. Hai cuộc kháng chiến có tính chất sống còn của dân tộc kể cả mười năm hậu chiến (như một thời kỳ đệm) đã là quá nửa đời người. Ấy là không kể dăm năm hoạt động từ trước Cách mạng. Đất nước vào Đổi mới lại có những khó khăn, trăn trở, vật lộn nghiệt ngã bước đầu của cơ chế thị trường cùng với thời cơ và thách thức mới. Đó cũng là lúc phải chuyển giao thế hệ. Gần cuối tuổi “xưa nay hiếm”, Nguyễn Đình Thi sau 31 năm chủ trì Hội Nhà văn, chuyển về làm Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam cũng là đúng lúc, đúng chỗ. (Huy Cận cũng về làm Phó chủ tịch Hội lúc đã cao tuổi).
Rõ ràng là có sự phân công từ trên nhưng Nguyễn Đình Thi là người có thiên thời (thời cơ, thời thế thuận), địa lợi (vị trí công tác quen thuộc) và nhất là nhân hoà (ý Đảng, lòng dân). Ngồi ở Quốc hội là do là phiếu tín nhiệm của dân, ngồi yên và lâu ở Hội Nhà văn - một hội sừng sỏ vai vế trong hiệp hội – cũng là do sự tin cậy qua bầu cử chứ? Trong đoàn thể kể cả từ Trung ương Đảng không hề có sự “truyền ngôi”, “kế vị”, là nơi thể hiện dân chủ cao nhất. Anh em tín nhiệm mà thấy còn đủ sức, đủ tài thì còn làm. Mà một người đã từng hoạt động cách mạng bí mật, từng nếm mùi nhà tù đế quốc, với dòng máu trái tim đỏ thắm như Nguyễn Đình Thi, chỉ biết làm việc không ngừng, không nghỉ, không biết có tuổi già thì sao từ chối được trách nhiệm? Chắc ít người (chứ không phải tuyệt đối là không có ai) nghĩ rằng Nguyễn Đình Thi ham hố. Đã từ lâu chứ không phải những năm cuối đời, trong nhiều vở kịch mà rõ nhất là Rừng trúc, Nguyễn Đình Thi cảm nhận và phô bày rõ nhất cái bi kịch quyền lực, và lên án bệnh quan liêu, cô độc, hẹp hòi, đề cao lòng thanh bạch vì đại nghĩa quốc gia.
Nói thế tức là để dẫn tới một lý do nữa là áp lực của dư luận.
Dư luận là cái gì mơ hồ mà có khi lại rất thật, là cái vô hình mà nhiều khi lại có sức mạnh ghê gớm đến mức làm xúc phạm được cả một nhân cách cao đẹp và có khi tiêu huỷ cả một sự nghiệp sáng giá. Cứ lấy ngay nhân vật lịch sử Nguyễn Trãi của Nguyễn Đình Thi đủ rõ. Có những trang sử cá nhân hào hùng, những chiến công hiển hách lại có những ngày trong quãng đời âm thầm, tù túng (Nguyễn Trãi ở Đông Quan) đến mười năm. Lời dèm pha của kẻ nịnh thần nhằm đánh gục Nguyễn Trãi. Thực ra xưa nay, đó đây cũng có chuyện treo ấn từ quan nhưng đó là trong một hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Ở ta có Nguyên Hông từ bỏ thị thành với “vinh hoa, phú quý” phù phiếm để lui về quê vùng dân dã Yên Thế sáng tác. Có lẽ chỉ duy nhất, vì vai trò của Nguyên Hồng có khác. Thời nay, chuyện một quan chức dù là thấp mà từ chức là chuyện hiếm, nhất là với ông lớn lại cực hiếm. Cũng có một vài vị, ở vào tình thế bó buộc (do bê bối lớn, do dư luận lên án mạnh) cấp trên gợi ý mãi mới “dám” viết đơn từ chức. Nói ta chưa có “văn hoá từ chức” đúng một phần. Nhưng nếu xét cho cùng cũng là do dân trí. Ông quan chức lớn tham quyền cố vị đã đành, nhưng xã hội còn quá coi trọng quan chức “một người làm quan, cả họ được nhờ” vốn là nếp nghĩ còn rơi rớt khá nặng nề. Nguyễn Khải trong một truyện có viết tình trạng cười ra nước mắt: Một ông phải ra sau nhiều khoá Trung ương (vì tuổi cao sức yếu hoặc do tài đức kém, hoặc chỉ vì cần thay thế để đào tạo kế cận…) vậy mà khóc lóc hàng năm. Cả nhà khóc, cứ “như có tang suốt mấy năm” (Thượng đế thì cười. Tiểu thuyết 3). Chỉ người “có vấn đề” mới phải từ chức. Tự nhiên từ chức là “có vấn đề rồi”. Mà những người có vấn đề thực hay giả cũng đều muốn ở lại để cho tỏ mặt anh, mặt nàng hoặc tìm cách “hạ cánh an toàn” v.v… Cũng nói như Nguyễn Khải về một nhân vật có tài, vì bất mãn, bất phục thủ trưởng mà làm đơn nghỉ việc và nghỉ hưu luôn, nhà văn với sự rút lui đột ngột đó “xem là một cuộc tự sát về chính trị” (Nguyễn Khải. Tạp văn). Vậy thì việc “xuất, xử”, việc “chọn lựa” có cái khó, cái phức tạp của nó, nhiều khi muốn đâu phải là được. Vẫn là chuyện tình thế lịch sử - cụ thể thôi. Có lẽ với Nguyễn Đình Thi “không có con đường nào khác” trong sự lựa chọn của lịch sử văn nghệ.
Vấn đề đặt ra là xét xem ở vai trò “hai vai gánh vác sơn hà” Nguyễn Đình Thi có làm được trọng trách hay không?
Thực ra vai trò lãnh đạo của những nhà văn nghệ là ở cả tập thể, ở cả bộ tham mưu, thành công thất bại phải được xem xét với quan điểm lịch sử.
Trước hết ta thấy Nguyễn Đình Thi là người có tầm lãnh đạo ở cấp cao nhất, do lập trường quan điểm vững vàng, do tài năng nhìn xa trông rộng. Với vốn tri thức cao kể cả tri thức sách vở và thực tiễn cách mạng, ngay từ khi còn rất trẻ 20, 21 ông đã được tín nhiệm cử vào cương vị của nhà lập pháp cho một chế độ non trẻ: Uỷ viên tiểu ban dự thảo Hiến pháp và Uỷ viên Ban thường trực Quốc hội (khoá I).
Ông đã tham gia xây dựng nhiều quyết sách lớn cho đường lối văn nghệ trong thời kỳ đầu của cách mạng và kháng chiến. Ông là người góp phần thực hiện và biến Đề cương văn hoá của Đảng thành hiện thực, biến ý tưởng của Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam của lãnh tụ Trường Chinh thành tư tưởng chỉ đạo văn hoá – văn nghệ kháng chiến. Hồ Chủ tịch chỉ cho Đại hội văn hoá một phương châm “kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến”, bộ tham mưu trong đó có Nguyễn Đình Thi đã biết biến hoá khẩu hiệu thành đời sống, thành hiệu lệnh của hành động văn hoá văn nghệ. Bài viết Nhận đường có ý nghĩa chiến lược là nhờ vậy Một nền văn hoá mới chỉ là một phương hướng phấn đấu, Nhận đường là khẩu hiệu lên đường.
Nguyễn Đình Thi cũng là một trong những người nêu vấn đề Xây dựng con người sớm nhất (1946) – con người mới của thời đại – nhân vật trung tâm của văn nghệ cách mạng. Mấy vấn đề văn học (1956) và Mấy vấn đề đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ hiện nay (1958) đã được nhiều nhà lý luận văn nghệ phân tích, đánh giá công minh và xác nhận giá trị lớn của tiểu luận (Lê Anh Trà, Lê Đình Kỵ…). Ở đây chỉ nhấn mạnh tới cái tầm chiến lược của các tài liệu như các văn kiện hết sức quan trọng trong việc xác định những đường hướng, những mục tiêu văn nghệ một thời. Cần nhấn mạnh tính chiến đấu, tính thời sự mà tinh thần của nó còn sống đến ngày hôm nay. Nguyễn Đình Thi luôn phân biệt được “độc lập của tư tưởng, tự do của nghệ thuật, tự do của cá nhân” theo quan điểm chính xác và xác định rõ nhiệm vụ của văn nghệ: “chúng ta không thể tha thứ được sự đào ngũ của nghệ thuật. Chúng ta không thể để cho nghệ thuật, văn học trở nên một thứ thuốc phiện ru ngủ, đưa con người đi trốn trách nhiệm xã hội, lánh xa sự thật, quay lưng vào cuộc đấu tranh của quần chúng”. Luôn luôn bám sát mục đích cụ thể của văn nghệ là “xây dựng con người hay nói đúng hơn làm cho con người tự xây dựng được”. Nguyễn Đình Thi không tiếc sức kêu gọi đi vào cuộc sống, đi vào quần chúng đó không chỉ phù hợp với đặc trưng cơ bản của văn nghệ mà còn phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử đấu tranh. Phương hướng ấy không bao giờ là cũ: “Trong sáng tác, nhân tố quyết định vẫn là vốn sống, trình độ tư tưởng và tài năng người sáng tác”.
Nguyên tắc đấu tranh tư tưởng và bài học của nó trong thực tiễn có ý nghĩa soi sáng lâu dài. Có những ấu trĩ do hạn chế lịch sử trong đó có trách nhiệm của người lãnh đạo. Tuy nhiên khép lại quá khứ không thể mơ hồ, phải có trận tuyến, phải có tâm - thiện chí và sự dũng cảm có tầm – tài năng phán xét xử lý. Thời nào cũng vậy, kể cả hôm nay. Bởi thiếu cảnh giác có thể sơ hở trận địa, dao động lập trường, bối rối tư tưởng dẫn đến mất ổn định an ninh chính trị.
Nói như thế cũng tức là đề cập tới trách nhiệm chỉ đạo thực hiện cùng với việc đề ra quyết sách đúng đắn. Nhìn chung lại một đóng góp lớn của Nguyễn Đình Thi là đã giữ vững được sự ổn định và phát triển của đời sống văn nghệ chặng đường lịch sử dài lâu và nhiều khi sóng gió và nhất là vào lúc chuyển giai đoạn cách mạng trong lịch sử: đi vào cách mạng và kháng chiến, tiến lên kiến thiết đất nước trong hoà bình và sự nghiệp đổi mới. Bao khó khăn ngáng trở, thách đố đã vượt qua. Con thuyền văn nghệ vượt được những thác ghềnh đang thẳng tiến vào biển lớn hội nhập, ghi công và vinh danh những chỉ huy tài hoa và đội ngũ thuỷ thủ anh hùng.
Nhìn cả hai phương diện, hai tư cách - người chỉ huy và người chiến sĩ - Nguyễn Đình Thi đều có đóng góp cật lực vì đã sống hết mình với nghệ thuật.
Nguyễn Đình Thi trong cuộc đời thực đã đi vào đời sống với tư cách của một người lính thực sự, là người nói là làm, hơn thế làm tốt điều tâm niệm cũng là lời kêu gọi đội ngũ. Nhất là thời chiến ông từng lăn lộn trần đời trong đời sống vất vả, gian khổ như một cán bộ quần chúng, như một người lính chiến, một sĩ quan chỉ huy, một người công dân mẫu mực. Đi hết chiến dịch này đến chiến dịch khác, bám sát dấu vết nóng bỏng của chiến sự. Theo dõi bước trưởng thành của các binh chủng từ hoạt động du kích đến vận động chiến, tiêu diệt chiến, từ vũ khí thô sơ đến hiện đại, đối mặt với hai kẻ thù mạnh mẽ và ác độc dã man nhất của thế kỷ, đó là cuộc hành quân không mệt mỏi của con người chiến sĩ Nguyễn Đình Thi. Cũng như nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp, Nguyễn Đình Thi từng đi chiến trường miền Nam, xuyên qua Trường Sơn vào tận đồng bằng sông Cửu Long làm chuyến đi “nước non ngàn dặm” lịch sử thời chống Mỹ. Cái vốn sống vô giá ấy đã tạo nên, đã làm lớn thêm tài năng nghệ thuật Nguyễn Đình Thi.
Phải nói thêm rằng, với những người lãnh đạo thì thời gian là vật chất quý giá, nhiều khi còn giá trị hơn vàng bạc là vậy, phải biết “chớp” lấy, “chộp” lấy từng khoảnh khắc hiếm quý. Ông đã viết trên đường đi, trong hầm tác chiến, trên giường bệnh … Sống căng mình ra bằng cả cơ bắp và trí lực trong rất nhiều hoàn cảnh thời chiến cũng như đời thường. Ba Tuyển tập lớn của đời văn trong hơn nửa thế kỷ cầm bút là một đóng góp - với ông cũng đã là niềm mơ ước lớn, nhiều khi còn vượt quá sự tưởng tượng của bản thân. Vỡ bờ được thai nghén từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp cho đến lúc hoàn thành – qua giai đoạn cảu thời chống Mỹ - thực sự là một kì công. Từ Con nai đen đến Rừng trúc hiện trên sân khấu (1999) cũng là gần 40 năm. Một đời tài hoa và đa đoan.
Nhưng điều quan trọng, cả với hai tư cách, Nguyễn Đình Thi còn là “xung kích” trên mặt trận văn nghệ như một nhà hiện đại hoá văn học nghệ thuật. Với nhiều ý tưởng sâu xa, với một sự nhẫn nại và niềm tin lớn lao hiếm có.
Nguyễn Đình Thi là một trong những nhà lãnh đạo cao cấp về văn hoá văn nghệ kể từ khi đảm nhiệm Chủ tịch Hội Văn hoá cứu quốc cho đến cuối đời ở cương vị phụ trách Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Ông là nhà chính trị hoạt động văn nghệ suốt một đời, ở hàng tướng lĩnh của sự nghiệp đấu tranh xây dựng nền văn nghệ mới. Ông đã có tác động lớn lao, quan trọng vào nền văn nghệ. Sự đóng góp cho đời ấy, cho thời đại ấy phải được đánh giá đúng mức và vinh danh như một người mở đường và dẫn đường trong lịch sử văn nghệ mới cách mạng.
Nguyễn Đình Thi cũng là một trong số nhà văn - nghệ sĩ hàng đầu có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp sáng tác bản thân, với một khối lượng đáng kể và có hiệu quả nghệ thuật cao. Hơn thế, ông còn đóng vai trò người cách tân văn nghệ theo hướng tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc, là một tấm gương cần cù, nhẫn nại, quả cảm tiêu biểu trong lao đông nghệ thuật.
Tâm hồn Nguyễn Đình Thi là một dòng sông, sự nghiệp của ông cũng là một dòng sông. Mà là dòng sông tầm cỡ lớn vừa hiền hoà, lặng lẽ vừa dào dạt, tràn đầy, cuộn sóng.
Nói một cách giản dị hơn Nguyễn Đình Thi là một đại diện điển hình, một hình ảnh tiêu biểu cho chân dung tuyệt đẹp văn nghệ sĩ Việt Nam. Không chỉ một thời mà là một thời cho mãi mãi.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.