TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
NGUYỄN KHOA ĐIỀM, TỪ TRẦM HÙNG ĐẾN CÕI LẶNG
NGUYỄN KHOA ĐIỀM, TỪ TRẦM HÙNG ĐẾN CÕI LẶNG
Văn Chinh
Trong tiểu đội thơ chống Mỹ với tiểu đội trưởng Phạm Tiến Duật, có Nguyễn Khoa Điềm như một chính trị viên, ông vẫn giữ vị trị ấy ngay cả khi chỉ huy tiểu đội được thay thế bằng Hữu Thỉnh về cuối cuộc chiến tranh. Nếu chúng ta hình dung tiểu đội thơ chống Mỹ như một dàn đồng ca thì chính họ là người lĩnh xướng, vào các khúc thức khác nhau và cần kể thêm người lĩnh xướng thứ tư là Trần Đăng Khoa. Nhân thể, xin kể tên những đội viên còn lại; họ là Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ…
Vâng, tiểu đội không có biên chế chính trị viên và chức vụ này thực ra là quan niệm của riêng tôi. Trong một cộng đồng, ngoài thủ lĩnh dễ làm mất lòng nhiều cá nhân do nêu cao kỷ luật thường vẫn có một người lặng lẽ, không quát nạt cao giọng mà thủ thỉ tâm tình, anh ta chính là thủ lĩnh tinh thần của đơn vị ấy, na ná một vị linh mục.
Thời dạy cấp 1 ở Thanh Sơn, Phú Thọ tôi trở nên nổi tiếng hàng huyện nhờ tài lẻ nói chuyện thơ Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật. Tôi nhớ tôi đã so sánh giọng lạc quan tài tình của họ với nhạc vàng mà ai cũng từng nghe lén đài Sài Gòn, gọi đó là chính khí và thương tổn khí của hai miền khi ấy và bao giờ cũng chốt bằng hai câu thơ: Câu làm yên lòng hậu phương của Phạm Tiến Duật: Thế đấy giữa chiến trường/ Nghe tiếng bom rất nhỏ. Câu làm yên lòng tiền tuyến lớn của Trần Đăng Khoa: Ao làng vẫn nở hoa sen/ Bờ ao vẫn chú dế mèn vuốt râu.
Nhưng sau Những vùng rừng không dân và Vòng trắng thì không ai mời nói chuyện thơ nữa. Tâm thế xã hội trầm lắng và buồn nản. Cũng còn do cuộc chiến đã quá dài, quá ác liệt. Sau này đọc thêm nhiều sách, tôi hiểu đó là quy luật con lắc của xung lực xã hội. Giữa lúc hiểm nguy ấy thì giọng thơ trầm hùng, da diết của Nguyễn Khoa Điềm cất lên. Nó cất lên ngay trên vùng giáp ranh và thậm chí ngay giữa chiến địa, nơi đất do bên kia kiểm soát nhưng những người bên mình đang sống kiếp sống nhàu nát, bị khinh bỉ và o ép. Đó là tập thơ Đất ngoại ô (1973) mà văn học sử hẳn phải dành cho nó một mục riêng ở chương thơ chống Mỹ, bởi cho đến khi đó, thơ đánh giặc nói chung vẫn là nói về ta, giặc ở trên cao và ở rất xa; ai cũng biết đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, nhưng đây là lần đầu khái niệm Made in USA – làm tại Mỹ được dùng như một chất liệu thơ:
Để tượng Giê Su một lần đinh nhọn hoắt
Cối đinh…rốc két đinh…đinh, đinh…những mũi nhọn giết người
Những cái đinh của thế kỷ hai mươi
Đóng xuống Việt Nam
Làm tại Mỹ
Thì thơ có ngay một hiệu ứng xã hội, nó khiến tâm thức Ky tô giáo bừng ngộ cùng tâm thức Việt. Nó nâng rước tinh thần, nó khiến xốc lại đội ngũ trước vấn đề sống / chết chứ không còn là nhìn rãnh hào lòng nản (Puskin) và biết bao giờ mới thắng của tâm thế bấy giờ:
Khi Người khổ đau không làm ta sợ hãi
Trong căm hờn ta biết đường ta lên
Như hôm nay trầm tĩnh tiếng chim
Gõ không mỏi vào cửa ngày gian khổ nhất
Nhiều người đã bình rất hay về Đất ngoại ô, tôi chỉ xin nói vài nét về giọng điệu của nó. Nhìn chung, nói như Chế Lan Viên, đây là những bài thơ đánh giặc, nhiều câu bây giờ đọc lại thấy sáo và dễ dãi:
Vút từng không tiếng gió phất cờ sao
Ôi ngày hội của những người đứng lên đòi được sống
Những âm thanh ngàn sóng đại dương trào
Nhưng những gì Đất ngoại ô đọng lại trong tâm trí tôi thì trầm hùng và da diết mà theo kinh nghiệm, tôi phán đoán nó là sản phẩm của trí tuệ trái tim.
Đây là ký ức tuổi thơ buồn:
Vườn thơ xưa không còn gã áo trắng đi về
Ngơ ngẩn đọc thơ buổn trong tiếng guốc cạo râu
Và:
Khu phố ngoại ô
tầm tã rụng bên dòng sông
những người dân nghèo về đây
như vỏ hến chiều chiều tấp lên các bến
và đây nữa:
chỉ còn người phu xe cũ
nghiêng cốc rượu chiều nhòe những mái tôn
Đây là cám cảnh phận người dưới đáy:
Ngoại ô ăn mắm cả chai là ngày đầu tháng
Ngoại ô chưởi thề cãi nhau là ngày cuối tháng
Đồng tiền ngoại ô nhàu nhĩ mặt người
Vả chăng, trong bài Hình dung về Chê Ghêvara, tác giả đã nhìn thấy một thần tượng:
Tôi đi hoài với những hình dung
Về Chê Ghêvara, người nghĩa quân
Như mang một chiếc Tây – ban – cầm trước ngực
Vâng, ghi ta thì lãng mạn và gọn ghẽ với người lính chiến, nhưng cũng vì là ghi ta nên có thể réo rắt và trầm hùng chứ không thể hùng tráng saxophone Phạm Tiến Duật. Đằng khác, Nguyễn Khoa Điềm tính trầm, nét nghĩ ngợi nhiều hơn nét cười trên gương mặt. Có lẽ Huế với rất nhiều lễ nghi mực thước khiến cư dân lễ phép ít điều nhời cũng góp nhiều vào giọng điệu thơ ông? Nhưng tôi cũng không hiểu vì sao thơ ông lại da diết và buồn?
Ở trên, tôi có nói về tâm thế năm 1973, năm về cuối cuộc chiến tranh. Khi xuất hiện, Đất ngoại ô lại giúp tôi có việc làm cho tài lẻ của mình, lại đi nói chuyện thơ, nhưng công chúng của chúng tôi ít hơn trước nhiều. Chỉ đến khi ra đời Mặt đường khát vọng, cụ thể là chương Đất nước được đọc đi đọc lại trên nền nhạc đệm của Đài tiếng nói Việt Nam, công chúng của chúng tôi mới kín chật hội trường. Xin dừng lại để hồi tưởng những vinh quang thơ Việt, đó là thời điểm cả nước cùng đọc thơ Trần Đăng Khoa, đọc thơ Phạm Tiến Duật, đọc Đất nước, đọc Đường tới thành phố…
Thực ra, với chương Đất nước là cả nước cùng lắng nghe đêm đêm, cùng ngẫm nghĩ và nhận ra, vào thời kỳ gian khổ nhất của cuộc chiến, sốt rét rừng làm tê tái mỏi nản, Nicxon đã viếng Bắc Kinh rồi viếng Maxcowa, hai mươi mốt phát đại bác gầm vang trời thì hồn thiêng sông núi Việt ngàn năm mới giật mình thức giấc để sau đó đã cùng vào trận với con dân thời đại.
Mặt đường khát vọng có chương nền tảng là Tuổi trẻ không yên mà cánh tiểu trí thức phố huyện chúng tôi rất thích. Nó tiếp tục cảm hứng bị dày xéo, bị o ép và nỗi đau âm thầm bị ngoại bang dùng người mình như một công cụ của Đất ngoại ô nhưng hình tượng thơ là tuổi trẻ học đường – nơi Mỹ Ngụy đã quân sự hóa. Nói là chương nền tảng vì nó cắt nghĩa động lực xuống đường của học sinh sinh viên như một cao trào của trường ca. Và cần nói ngay, đó là nền tảng xây đắp bằng thơ, đẹp và mịn. Nó là tiếng chuông của 20 ngôi chùa cộng thêm 1 của Nhà thờ Cứu thế không làm yên nổi nỗi khắc khoải của những người nhìn lên bản đồ Tổ quốc:
Sao Tổ quốc mà chỉ còn nửa nước
Dẫu địa lý chúng con thường ít thuộc
Nhưng nỗi đau này chúng con nhớ hơn
Nó là nỗi khắc khoải của những người mà không biết bọn CIA, bọn Trường sĩ quan Lục quân sẽ bắt đi lúc nào để dạy cách bắn giết đồng bào mình. Và thầy trò bất lực cùng than:
Thầy đừng trách chúng con là “bầy khó nói”
Chúng con là “bầy cúp cua lang thang”
Đây nữa :
Có gì đâu, chúng con muốn yêu thương
Sao thầy giảng chỉ những điều cay đắng
Máu thì đỏ mà phấn thầy thì trắng
Có vẽ nổi tâm hồn con không?
Nó làm bất yên vì nếu bằng lòng chấp nhận thì sẽ không thể thành người, cho nên cần hy sinh cả tương lai, cả niềm khát sống hiện tại mà né tránh:
Chúng ta chưa qua một đời trai trẻ
Ra đường bị bắt lính ngay
Nên phải ở những nơi dán ở
Nên đeo gương cho cận thị suốt đời
Nên ngốn đi – a – mốc cho một đêm khô hai lít nước
Đến Mặt đường khát vọng thì tài năng thơ Nguyễn Khoa Điềm thật chín, giọng điệu riêng mới thành hẳn phong cách:
Nói điều lớn lao bằng lời giản dị, nói dân tộc bằng tình yêu đôi lứa:
Đất là nơi anh đến trưởng
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Nói hờn căm hôm nay bằng nửa câu thành ngữ cũ, mở cho nó một trường nghĩa mới :
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Nói lý luận chính trị nhưng lại chỉ thấy một hình tượng nhuần nhị:
Hãy ngã vào nhân dân, đừng vãi đừng rơi
Đừng do dự, đừng hoài nghi nữa
Hãy yêu nhân dân và nghe người nhắn nhủ
Nó tách xa dần khỏi thi pháp Thơ Mới để bứt hẳn với tập Cõi lặng về sau; đến Cõi lặng, thơ gồm những câu ngắn dài khác nhau, rất ít hình ảnh, lời thơ chỉ là tiếng nói thường ngày. Dường như Nguyễn Khoa Điềm bắt kịp với cách thơ hiện đại của Thơ Trẻ? Ở đây có vấn đề của địa văn hóa. Chúng ta biết Nguyễn Khoa Điềm là người Huế, nơi có giọng hát, giọng nói êm, du dương và hay đến có thể làm hồ sơ để UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Nếu có thể, xin hình dung giọng Huế là thơ Tố Hữu, rất giầu vần điệu; giầu đến dư thừa: “Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan”. Nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm ít vần điệu, những câu hay, những câu là hạt nhân của tứ toàn bài vừa dẫn đều không có vần – đúng hơn là không vần truyền thống. Mà lại rất ngọt, nó làm chứng lời Nguyễn Đình Thi nói năm 1949: (đại ý) Khi thơ không cần niêm luật vần điệu, nó tựa hẳn vào luật bên trong - ở đây là cảm xúc nội tại và đó là cái làm thơ bứt khỏi Thơ Mới. Vậy cái gì thuộc địa văn hóa làm thơ Nguyễn Khoa Điềm khác người đồng hương tiền bối? Trước hết, xin nhớ sau hơn một trăm năm là kinh đô, Huế hút vào mình không ít văn minh của nhân loại; không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các nhà Thơ Mới đều sinh trưởng ở dải miền Trung với Huế là tâm điểm. Nhưng tôi nghiêng và tin vào thành tựu những năm Nguyễn Khoa Điềm ăn học ở miền Bắc, đặc biệt là những năm làm sinh viên văn khoa của Đại học Sư phạm Hà Nội – cái bảo tàng sống của văn hóa dân ca Đại Việt mà, với những chương trình điền dã của sinh viên, bảo tàng ấy sau mỗi năm càng là một Việt Nam thu nhỏ trên bình diện tục ngữ, thành ngữ, ca dao dân ca. Vâng, Đất nước thấm đẫm văn hóa Đại Việt, nhà thơ đã tái sinh những giá trị cổ điển và hiện đại hóa nó, tạo xung lực mới cho nó.
Sau 1975, Nguyễn Khoa Điềm từ đại tự sự bước sang tiểu tự sự, xuống đời thường cũng chân thành như khi nhân danh một thế hệ tuyên thệ cùng dân tộc. Bây giờ anh thợ cày đã cày xong thửa ruộng, đã ngủ ngon lành trên cỏ. Thức dậy về nhà, anh chợt nhận ra cái hạnh phúc anh mang về cho mẹ không thật như mơ ước (Mẹ và quả). Anh chợt thấy mùa thu trong tâm tưởng của mình là mùa thu sách vở (Đi bên mùa thu), cái xôn xao của nó cũng bên ngoài cửa sổ và con tầu thời gian đã đưa nó đi nốt. Anh tựa vào cây chò tình yêu (Em, cây chò của anh) nhưng:
Có thẻ nào khác được
Có thể nào em bật gốc giữa hồn anh
Nhưng cái làm anh thợ cày của chúng ta bất ngờ nhất lại là nhà văn Nguyên Hồng – thần tượng của anh đã về đất bằng bệnh lao lực – hệ lụy của hàng ngàn trang viết mà từ lâu đã thành đất ấm, ấp ủ anh. Ô hay, bản thân khát vọng độc lập tự do đã mang sẵn ấm no hạnh phúc rồi chứ? Nhưng hóa ra chưa. Và từ đây, với tuổi bốn mươi ngoài, cái điềm đạm của nhà thơ chín hơn. Ông chấp nhận chứ không trốn nó như nhiều người để tìm cách thoát ra. Trước hết và tiện hơn cả là thoát ra bằng khuôn vào đặc trưng thơ hiện đại, ít dãi bày và kiêng kị ồn ào.
Chúng ta đều biết trước Cõi lặng, Nguyễn Khoa Điềm làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin rồi Trưởng ban Tư tưởng và Văn hóa TW; vậy Cõi lặng là đối trọng với cõi xôn xao quan trường? hay giữa thiền định với trần thế, giữa tôi với tha nhân? Tôi không được biết trong mấy chục năm nắm quyền lực, ông có những công tích gì, những sai trái gì, chỉ biết đó là nơi khó tránh nổi thị phi. Nhưng đó là việc khác và đây không phải là chỗ để bàn. Điều đáng mừng là soi vào cách lập ngôn cấu tứ của ông, tôi thấy có mình, cũng bức xúc mà không dám nói hết, cũng đành gửi những điều muốn nói vào khoảng trống giữa những con chữ. Nhất là khi đọc chùm bài viết sau 1975 vừa dẫn, tôi thấy ông gần gũi, cần cảm thông thương mến, thấy ông đúng là người của thế hệ mình, một thi nhân.
Nói là Cõi lặng, nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng dừng. Tin hai nhà khoa học bị chết chỉ cách nhau mấy ngày do cùng tai nạn xe máy ở Hà Nội vẫn va đập thô bạo vào ông lão vườn chuối bây giờ chỉ còn thú đạp xe đi dạo. Làm bật lên câu thơ thẳng và mạnh, như tiếng dội lại từ vách đá:
Hung bạo trên mạng trên sàn diễn, trong lớp học
Hung bạo giữa bàn nhậu, cửa sau công sở, hung bạo đường phố
Còn đây là tiếng ngân rền của nó:
Tôi thương xót những nhà khoa học không đủ sức chống lại ngọn roi hung bạo
Tôi thương xót nhiều hơn cho chính nước tôi
Hóa ra, phải có một khoảng lặng nào đó, người ta mới nghe nổi tiếng kêu khẩn thiết của cuộc đời giữa ồn ào hỗn tạp của nó. Khoảng lặng cũng thật cần cho nỗi lo âu làm người và nhắn nhủ lay thức. Ở đây là nhân danh thời gian:
Hà Nội thì thầm nghìn năm tuổi
Mừng Đảng qua một mùa đại hội
Ở đây là nhắn nhủ nhân danh niềm tin:
Rồi có một ngày
Có một người tốt
Bước ra từ lịch sử
Nói về cái tốt bị bỏ quên
Những điệp khúc nhắn nhủ với thật nhiều khắc khoải:
Đoản mạch
Im re
Bá đạo
Buồn chuyện năm châu bốn biển
Có một kẻ sĩ cưỡi trâu vào núi
Để lại cửa Chánh Tây mười chữ:
Tìm được Đường, thật khó
Tìm được Người, khó hơn
Nhưng khi lòng tĩnh lặng, thi nhân còn nghe được nhiều điều hơn thế, cái làm ta hạnh phúc cũng giản dị hơn:
Bạn cũ đến chơi
Chép miệng sống cũng tạm được
Phải cái hơi móm
Cười trống trơ như Đỗ Phủ
Nghe được niềm vui sống với ít nhiều mặc cảm tuổi tác và chính vì thế mà hoa quỳ vàng Đà Lạt nở như mưa càng xao xuyến, càng thảng thốt hơn, thơ hơn.
Cõi lặng có nhiều bài viết tặng bạn thơ, hai bài về Đồng Đức Bốn thật hay, tôi xin phép không nói lại. Bài viết về Phùng Quán, Người nằm bên Hồ Tây vừa hay vừa chất chứa nhiều tâm sự tác giả:
Người nằm chân đưa về hồ Tây
Gió mùa đông thổi lạnh chân gầy
Có điều lạ là Phùng Quán từng là thần tượng một thời của Nguyễn Khoa Điềm:
Người mơ mộng một thời đánh giặc
Người tóc râu một thời thị trường
Cuộc viễn du nào buồn đến vậy
Người hùng thời niên thiếu tôi ơi?
Tôi nghe trong khổ thơ chất chứa những khát vọng không thành, những chân trời không đến; bâng khuâng nhẩm lại chùm bài viết sau 1975 của ông. Tôi đọc chùm Nhặt ghi ở gần cuối tập với ít nhiều bàng hoàng và chợt thương cảm:
Tóc trắng như thời gian thích chữ lên trán
Đày anh về nhà
Không thể chạy trốn số phận
Thương cảm đến xót xa:
Nhiều lúc phải đeo mặt nạ vô lối
Để không ai nhớ anh nữa trong một thế giới quá quen thuộc
Chính là cách anh trở lại muôn một giữa đời
Cõi lặng để lại một dư âm khắc khoải giữa bổn phận làm người và tự do thi sĩ; nó chính là tấm gương phản quang của một quãng đời. Từ xa, xin chạm cốc mửng tác giả Thơ mừng cháu ngoại của ông lão đã cảm thấy vành xe đạp không tròn nữa, nhưng thật hối hả niềm vui, hối hả làm người:
Vậy là trẻ con ngủ ngoan
Mà người lớn chạy lon xon
Nào sữa, nào tã lót
Thế giới quá rộn ràng
Khi trẻ nhỏ có mặt
Dường như có một liên tưởng nào giữa em cu Tai ngủ trên lưng mẹ với đứa cháu ngoại hôm nay. Khác chăng, mẹ cu Tai dìu em đi để dành trận cuối cho cuộc chiến giành độc lập tự do, còn nhà thơ ru cháu ngoại ngủ ngoan hôm nay, để dìu nó vào trận cuối cho cuộc chiến đấu với cái quên, cái hung bạo để giành ấm no hạnh phúc ? Dẫu sao, đó cũng là ấn tượng của tôi khi gấp Cõi lặng – một tập thơ quan trọng của thi đàn giữa năm tháng này.
Vậy còn dư âm thơ Nguyễn Khoa Điềm ?
Tôi tin chắc câu thơ Thầy đừng trách chúng con là bầy khó nói/ Chúng con là bầy cúp cua lang thang sẽ còn sống tiếp đời sống của nó. Không phải vì lý do khiến nó ra đời. Phấn vẫn trắng và máu không đổ nữa, nhưng cái xấu và sự thất nghiệp khi tốt nghiệp là mầu xám, thậm chí là mầu nước cống vẽ sao nổi tâm hồn chúng con? Phải chăng là tuổi trẻ vẫn chưa yên với tham nhũng bất công? là tuổi trẻ chưa yên nếu chưa được đứng dưới ngọn cờ do những người mà phẩm chất còn xứng với ngọn cờ ấy vẫy gọi, để cùng nhau tự vệ trước sự hung bạo của tham nhũng, của thói trọc phú đang như những giây thép gai đâm nát chân trời của tuổi trẻ ? Tôi già rồi, không dám biết, không biết nổi nhưng tôi tin vào các nhà thơ trẻ, tin vào tương lai của đất nước thi ca. Như tin chắc rằng thơ muốn hay, muốn có công chúng thì phải xuất hiện cùng và phù hợp với tâm thế xã hội. Chính Nguyễn Khoa Điềm đã làm một thực chứng luận niềm tin của tôi.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.