TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
SINH THÁI VÀ VĂN HÓA NAM BỘ TRONG THƠ VÀ TRƯỜNG CA THANH THẢO
SINH THÁI VÀ VĂN HÓA NAM BỘ TRONG THƠ VÀ TRƯỜNG CA THANH THẢO
- MAI BÁ ẤN – TRẦN NGỌC THẢO
Nhà thơ Thanh Thảo
Mở đầu
Văn hóa với tư cách là một khoa học bao trùm tất cả các khoa học, vì vậy, trong mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, xưa nay vẫn được nhiều người công nhận, văn học là một bộ phận quan trọng của văn hóa. Văn hóa là khái niệm luôn gắn liền với bề dài lịch sử và gắn liền với một dân tộc, sắc tộc, cộng đồng cụ thể ở một không gian sinh thái cụ thể, vì thế, khi nghiên cứu văn hóa, nhất định phải đặt nó trong một hệ tọa độ ba chiều: Thời gian văn hóa - không gian văn hóa và chủ thể văn hóa. Ở đây chính là thời gian văn hóa từ lúc hình thành vùng đất phương Nam trên cơ sở văn hóa dân tộc, không gian văn hóa chính là môi trường mênh mông sông nước Nam Bộ và chủ thể văn hóa chính là những cư dân Nam Bộ.
Sinh thái và văn hóa Nam Bộ trong mối tương quan với văn hóa Bắc Bộ và Trung Bộ của tổng thể văn hóa Việt Nam vốn có những đặc trưng riêng. Việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc trưng sinh thái và văn hóa Nam Bộ thông qua văn học là hướng đi cần thiết. Tuy nhiên, khác với văn xuôi, văn hóa thể hiện trong thơ thường không thể miêu tả cụ thể mà chủ yếu là thể hiện cái hồn của những giá trị văn hóa ấy một cách vừa rất khái quát lại vừa rất cụ thể, hình ảnh.
Để cuộc Hội thảo khoa học này mang tính đa dạng và phong phú, chúng tôi không chọn một nhà thơ Nam Bộ để nghiên cứu mà tôi xin được chọn một nhà thơ tiêu biểu của miền Trung (mà trong cả sự nghiệp sáng tác của mình phần lớn dành để phản ánh về đất và người Nam Bộ) làm đối tượng nghiên cứu. Đó là Thanh Thảo - một nhà thơ tiêu biểu của “thế hệ thơ chống Mỹ” quê Quảng Ngãi.
1. Thanh Thảo với Nam Bộ
1.1. Những vùng đất đã qua, những con người đã gặp
Trong cuốn “Lang thang qua chiến tranh” (xuất bản năm 2017), dưới dạng hồi ức, Thanh Thảo đã viết: “có thời gian tới 5-6 năm trong chiến tranh, nghĩa là trước khi tôi đi chiến trường 1 năm (tôi ở chiến trường Nam Bộ 5 năm), tất cả những bài báo của tôi viết cho đài phát thanh, dù là đài Tiếng nói VN hay đài Giải Phóng đều không nhận được một đồng nhuận bút nào”. Nghĩa là suốt 5 năm với tư cách là phóng viên, Thanh Thảo đã dong ruỗi khắp vùng đất Nam Bộ. Tập thơ đầu tiên “Dấu chân qua trảng cỏ” cùng những bài thơ nổi tiếng và cũng không ít “tai tiếng” của ông đều được viết trong những năm tháng ấy (Thử nói về hạnh phúc, Một người lính nói về thế hệ mình…). Ông tâm sự: “Từ Trường Sơn tới Đồng Tháp. Từ Gặp lá cơm nếp tới Một người lính nói về thế hệ mình - bài thơ dài đã làm khổ tôi không ít, nhưng cũng khiến tôi hạnh phúc cho tới tận bây giờ, dù tôi chỉ dám Thử nói về hạnh phúc chứ không dám, hạnh phúc là thế nào”. Kể cả những chương đầu tiên của trường ca đầu tiên nổi tiếng “Những người đi tới biển” của ông cũng đã được hình thành trong thời gian đó: “Và ngay thời gian đó, tôi bắt đầu viết vài chương thơ chuẩn bị cho một trường ca sẽ được hoàn thành sau giải phóng với tênNhững người đi tới biển” (Lang thang qua chiến tranh).
Trên bước đường nhiệm vụ, đất và người Nam Bộ đã in dấu trong thơ Thanh Thảo. Đọc thơ Thanh Thảo ta thấy rất rõ dấu chân ông trải dài trong những bài thơ từ Campuchia tới miền Đông Nam Bộ, băng qua Đồng Tháp Mười tới miền Trung Nam Bộ (vùng đất Mỹ Tho hai bên Lộ Bốn). Những tên đất, tên làng, tên sông, tên kênh rạch “đều mang tên người khai phá buổi đầu”, đó là một đặc trưng văn hoá địa dư Nam Bộ: “Những đìa Sấu bưng Heo gò Me sông Cũ/ đã mọc rễ vào trí nhớ” (Những người đi tới biển).
Thanh Thảo vào chiến trường những năm 1970 và làm việc tại Đài Phát thanh Giải phóng. Trong các tập thơ nhất là trường ca và trong các tập phê bình tiểu luận, đặc biệt là các cuốn hồi ức, ông thường xuyên nhắc đến những kỉ niệm đời lính và phản ánh những biểu hiện sinh động về con người và cuộc sống, sinh hoạt của cư dân Nam Bộ. Nhà thơ vào Nam Bộ chính xác là tháng 5 năm 1971, dịp này ông kết bạn với nhiều người ở chiến khu, trong đó có Lưu giữa năm 1971- nguyên là trung úy lái trực thăng của không lực Sài Gòn đã thoát ly lên chiến khu sau năm 1968- nguời bạn mà tác giả đã có lần nhắc trong “Một trăm mảnh gỗ vuông”. Tác giả thú nhận tiểu luận của mình: “chính giọng văn đặc sệt Nam Bộ với nhiều phương ngữ trong cách diễn đạt đã cuốn hút tôi” (Mãi mãi là bí mật, tr.396).
Tháng 8 năm 1972 ông xuống chiến trường Mỹ Tho và tham gia trận càn ở Mỹ Tho năm 1973. Trong một lần qua Đồng Tháp Mười trong chiến dịch “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972 của địch, nhà thơ đã tình cờ gặp người bạn (tên Lưu) ở cái lớp viết văn đáng nhớ ấy khi đang cùng “chém vè” tránh những cặp mắt điên đảo của đám trực thăng cá rô “tôi gặp thằng bạn thân trong một chuyến bất ngờ/ đêm Mỹ Long hai đứa nằm lộ đất/ trải dưới trời một tấm ni lông/ nơi khi chiều B52 bừa ba đợt…” (Khối vuông ru-bich). Người bạn này, được ông tiết lộ trong hồi ức “Lang thang qua chiến tranh” chính là đồng chí Phạm Quang Nghị.
Những năm từ 1973-1975 ông ở vùng đất Tây Ninh, ở sát sông Vàm Cỏ Đông, và cũng gần nơi mà ngày xưa nhạc sĩ Hoàng Việt viết bài hát “Lên ngàn” - đó là Trảng Cồng. Trong một cuộc phỏng vấn nhà thơ Bùi Công Minh, Thanh Thảo đã cho biết, cuối năm 1974 ở chiến trường miền Đông Nam Bộ và được nghe bài hát “Hành khúc ngày và đêm” của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu…(Ngón thứ sáu của bàn tay).
Ngày nào lạ lẫm chưa quen khi mới đến giờ đây dấu chân nhà thơ in đậm qua những mảnh vườn, thửa ruộng: Đìa Hưng, Bàu Hơn, Cả Mít, Gò Me, Mỹ Long... Đất rừng phương Nam là đích đến của nhà thơ trong hành trình đời lính và cũng là cái nôi để thành nhân.
Sau chiến tranh, Thanh Thảo về Đà Nẵng dự trại sáng tác Quân khu Năm dưới sự lãnh đạo của nhà văn đàn anh Nguyễn Chí Trung rồi sau đó tiếp tục công tác ở Hội Văn nghệ tỉnh nhà…Khi còn công tác trong thời bình, nhà thơ thường xuyên vào Nam Bộ công tác, nghỉ dưỡng; cả đến lúc về hưu, ông vẫn không ngừng trở về thăm lại chiến trường xưa để gặp gỡ bạn bè, tiếp tục lấy tư liệu, tìm cảm xúc và thực tế cho các sáng tác của mình... Điều này được nhà thơ thể hiện trong các tác phẩm viết về Nam Bộ ở thời bình, đặc biệt là các trường ca mới, các tập tiểu luận phê bình và hồi ức.
Khi chọn Nam Bộ làm nền cho thơ và trường ca của mình, yếu tố trước tiên chính là chất thô ráp như ngọc chưa mài giũa của ngôn ngữ Nam Bộ đã cuốn hút nhà thơ, kế đến là chất “biên khu” của những hình ảnh mang tính đặc trưng Nam Bộ. Chính lần đi gặp gỡ nhà văn Trang Thế Hy không thành vì ông đã đi xuống chiến tường, may gặp được nhà văn Anh Đức và được chiêu đãi thịt gà mà lúc trở về cứ, khi qua trảng cỏ voi, đã gợi hứng để bài thơ “Những dấu chân qua trảng cỏ” ra đời, sau này thành tên chung cho tập thơ “Dấu chân qua trảng cỏ” (Lang thang qua chiến tranh). Để kỷ niệm về tình bạn, nhà văn Trang Thế Hy khi gửi tặng Thanh Thảo tuyển tập truyện ngắn “Nợ nước mắt và những truyện ngắn khác” đề rằng: “Tặng Thanh Thảo, người trở về vùng tháp Chàm còn để lại ở rừng già phương Nam những “dấu chân qua trảng cỏ” (Trò chuyện với dòng sông). Với Nhà thơ Chim Trắng, Thanh Thảo kể: “Còn nhớ, trong lúc tôi buồn bã nhất (Sau vụ bài thơ “Một người lính nói về thế hệ mình” bị gỡ bỏ ngay khi tờ Văn nghệ Giải phóng vừa phát hành - MBA nhấn mạnh) bên sông Vàm Cỏ Đông, thì nhà thơ Chim Trắng đi bộ ngót một ngày trời đến với tôi… để anh em ăn với nhau một chén canh rau tàu bay, mắc võng nằm bên nhau chuyện trò suốt đêm… Anh Chim Trắng là người ngay thẳng, không biết sợ”. Chính sự quý nhau trong thời chiến ấy mà họ trở thành tri kỷ đến cả thời bình. Tại Sài Gòn, họ đã gặp lại nhau ở quán cà phê Niek-Ban để đến ngày 15/7/2006, Chim Trắng đã viết thư và gửi tặng Thanh Thảo bài thơ “Ở Niek-Ban coffee” và sau đó Thanh Thảo tặng lại bài thơ “Buổi sáng, gặp lại bài thơ bạn tặng”. Ngày 01/10/2011, khi Chim Trắng qua đời, Thanh Thảo đã “vào Sài Gòn tiễn anh lần cuối” (Lang thang qua chiến tranh). Bên cạnh đất và người dân, chính tính cách những nhà thơ Nam Bộ ấy đã chinh phục hoàn toàn Thanh Thảo...
Dựa vào tiểu sử, sự nghiệp và qua sự trao đổi giữa nhà thơ với các bạn trẻ, ta thấy chất Nam Bộ đã ám vào con người và thơ Thanh Thảo. Lời ăn tiếng nói, sinh hoạt đời thường của người Nam Bộ đã thấm vào ông. Rất nhiều nhà văn gốc Nam Bộ thể hiện chất Nam Bộ một cách tự nhiên trong sáng tác, thông thường là văn xuôi như Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng, Bình Nguyên Lộc…nhưng, với đặc trưng riêng của thơ, ta có cảm giác, văn hóa Nam Bộ đã được nhà thơ miền Trung này nâng lên một diện mạo mới với những nét khắc họa độc đáo làm phong phú, đa dạng thêm cho thơ ca viết về Nam Bộ.
1.2. Nam Bộ - Chủ đề nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của Thanh Thảo
Đến nay, Thanh Thảo đã xuất bản 8 tập thơ, 14 trường ca, 3 tập tiểu luận - phê bình - chân dung và 2 tập hồi ức. Thử làm phép so sánh về sáng tác của Thanh Thảo, chúng ta sẽ thấy rất rõ, ông đã dành phần lớn tác phẩm của mình viết về đất và người Nam Bộ. Cụ thể: Trong 7 tập thơ của mình, tỷ lệ thơ viết về Nam Bộ chiếm một số lượng khá lớn, đặc biệt là tập thơ “Dấu chân qua trảng cỏ” và Chùm thơ 9 bài trong cụm thơ có tên chung là “Ghi chép Tháp Mười”. Bên cạnh sắc thái Nam Bộ thể hiện trong thơ và các trường ca khác, ông đã có đến 6/14 trường ca viết trực tiếp về Nam Bộ gồm: Viết về đất và người Nam Bộ nói chung, có: Những người đi tới biển (1977), Những nghĩa sĩ Cần Giuộc (1982); viết về những danh nhân Nam Bộ có: Nguyễn Đình Chiểu và những nhân vật trong thơ ca của Nguyễn Đình Chiểu (Trò chuyện với nhân vật của mình - 2002), anh Chài Lịch - Nguyễn Trung Trực (Cỏ vẫn mọc- 2002), ông Sáu Dân và chị Ba Thi…(Dạ, tôi là Sáu Dân - 2016). Viết về những danh nhân không phải người Nam Bộ, nhưng cảm hứng sáng tác gắn liền với sự nghiệp, cuộc đời của họ ở vùng đất Nam Bộ có: anh hùng Trương Định quê Quảng Ngãi (Trò chuyện với nhân vật của mình - 2002), “ông quan khiêng võng” Lê Đại Cang quê Bình Định (Người khiêng võng, 2017). Trong khi đó, dù là quê hương mình, ông cũng chỉ viết về Quảng Ngãi có 3/14 trường ca: viết về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Bùng nổ của mùa xuân - 1982), viết về vụ thảm sát Sơn Mỹ (Trẻ con ở Sơn Mỹ -1982) và viết về danh nhân lịch sử Trương Quang Trọng (Hiển thánh tuổi 25 - 2018). Với thể loại tiểu luận - phê bình - chân dung - hồi ức, chủ đề về Nam Bộ vẫn dày đặc trong những bài viết của ông, đặc biệt hồi ức “Lang thang qua chiến tranh - 2017” dày đến gần 300 trang là một hồi ức của cả 5 năm ở chiến trường Nam Bộ. Như vậy, có thể nói, 5 năm “Lang thang qua chiến tranh” ở chiến trường Nam Bộ và cả những ngày “Cơ nhỡ trong hòa bình - 2017” với nhiều lần về thăm chiến trường xưa, bạn cũ, đề tài về Nam Bộ luôn nổi trội và chiếm tỷ lệ tác phẩm khá lớn trong sự nghiệp văn chương của nhà thơ Thanh Thảo.
2. Sinh thái và văn hóa Nam Bộ trong thơ và trường ca Thanh Thảo
Như nhiều quốc gia khác trên thế giới, do quá trình hình thành lịch sử và sự phân bố dân cư, đo điều kiện sinh thái tự nhiên và môi trường, phương thức sản xuất, do truyền thống tín ngưỡng và tập tục lâu đời, từ lâu trên đất nước ta hình thành các vùng văn hóa khác nhau. Mỗi vùng sinh thái - văn hóa tất nhiên sẽ có một truyền thống văn chương của mình.
Nói đến Nam Bộ, người Việt Nam luôn nói đến bằng tất cả tình yêu thương và tự hào. Bởi, đó là vùng đặc biệt về nhiều phương diện. Trên dải đất luôn nhoài ra biển Đông, lịch sử đã đi qua với bao nỗi thăng trầm từ buổi đầu mở đất đến những cuộc chiến đấu chống chọi với thiên nhiên và các thế lực ngoại xâm. Về vị thế địa lí, văn hóa, chính trị, Nam Bộ là nơi hội tụ nhiều nền văn minh, đón nhận và giao lưu với nhiều nền văn hóa đến từ nhiều chân trời khác nhau; cũng là nơi hội tụ của những “lưu dân” trên cả nước, tiếp nhận, hòa trộn nhiều nét đặc trưng văn hóa khác nhau giữa các vùng miền để tạo nên những đặc trưng cho riêng mình không dễ bị pha lẫn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được đề cập đến ba đặc trưng nổi bật thể hiện qua thơ và trường ca Thanh Thảo.
2.1. Sinh thái và văn hóa sông nước
Trải qua nhiều cuộc biến thiên thăng trầm lịch sử, các dân tộc anh em đã tạo dựng cho vùng đất này một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, giàu sắc thái phương Nam. Thiên nhiên Nam Bộ không gắn bó với không gian làng quê như người Việt ở vùng đồng bằng Bắc hay Trung Bộ mà đó là thiên nhiên gắn bó mật thiết với sông nước:
bè lục bình trôi ngang bất chợt
lúc tàu soi rà lượn trên đầu
ép vào ngực tôi con sóng đen hào hển
hơi bùn tanh tanh trong rễ lục bình
còn phải lội hết đêm quần áo ướt
nắm cơm vắt khi chiều vị lạt nước sông (Những người đi tới biển).
Rất nhiều hình ảnh của bức tranh thiên nhiên gắn liền với sông nước Nam Bộ trong thơ và trường ca Thanh Thảo: “rau mò om, sen, súng, điên điển, lục bình, tàu dừa nước, rễ gừa, tàu bay, trâm bầu, rễ bần, ong tràm, biền bưng, cù lần kêu, tiếng cọp gầm, nước phèn chát ngắt chát ngơ, xuồng ba lá…” (Những người đi tới biển); “lục bình, bình bát, rau mò om, ô rô, cóc kèn, mắm, sú, sác, điên điển, tràm, bần…” (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc); “bần, lục bình…” (Đêm trên cát); “súng, sen, bần, tràm, bụi đế, cỏ lông chông…” (Cỏ vẫn mọc), “dừa nước, tràm, bình bát, súng, sen…” (Trò chuyện với nhân vật của mình)… Từ bông điên điển cùng mùa nước nổi đặc trưng của sông nước phương Nam, Thanh Thảo đã bật lên những câu thơ đẩy đến sự tận cùng của tình yêu đất nước:
nhủ điều chi ơi tiếng cuốc đêm sương
kêu da diết suốt một mùa nước nổi
bông điển diển mở cánh vàng nóng hổi
là nắng chiều đẫm lại giữa lòng tay
đất nước ngấm vào ta, đơn sơ
như Tháp Mười không điểm trang
đầy im lặng
trên tất cả tình yêu
tình yêu này đi thẳng
đến mỗi đời ta
bất chấp những ngôn từ (Một người lính nói về thế hệ mình).
Nền văn minh lúa nước Đông Nam Á được xem là chiếc nôi của nghề trồng lúa trên toàn thế giới. Vì vậy, yếu tố sông nước cũng là một điển hình của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp Việt Nam. Sông nước Nam Bộ tạo nên những cánh đồng mênh mông, trở thành trung tâm sản xuất lúa gạo của cả nước, đến mức có câu hò nổi tiếng: Hò ơi, cái Răng, Ba Láng, Vàm Sáng, Phong Điền/ Anh có thương em thì cho bạc cho tiền/ Đừng cho lúa gạo, xóm giềng cười chê. Cảm nhận sâu sắc điều này, Thanh Thảo đã sáng tạo nên những câu thơ độc đáo riêng mình mà rất Nam Bộ:
ở đây kêu lúa bằng nàng
nàng hương nàng rừng…
…dịu dàng như ta gọi người thương” (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc).
Khi giới thiệu chùm 9 bài thơ “Ghi chép Tháp Mười”, anh tâm sự: “Năm 1972, tôi đi xuyên qua Đồng Tháp Mười về chiến trường Mỹ Tho. Ấy là lần đầu tiên tôi gặp Tháp Mười, một Tháp Mười hoang sơ mà sau này nhiều người đã được xem qua bộ phim “Cánh đồng hoang”, kịch bản của Nguyễn Quang Sáng và Hồng Sến đạo diễn. Với tôi, Tháp Mười mà tôi biết còn đẹp hơn trong phim rất nhiều. Đây là những bài thơ nhỏ tôi ghi trên Đồng Tháp Mười, vào những lúc dừng chân ở các trạm giao liên. 39 năm rồi, và tôi muốn mời các bạn đọc lại những bài thơ nhỏ như những ghi chép dọc đường đó”(1).
Chính vì thế, những hình ảnh mang rõ nét sắc thái vùng sông nước Nam Bộ xuất hiện nhiều trong thơ Thanh Thảo: “kinh, rạch, mương, con rạch, cửa sông, đường kinh…” (Những người đi tới biển); “vàm sông, dề cỏ, dề lục bình, đồng không mông quạnh…” (Cỏ vẫn mọc); “kinh, rạch, lội dưới rạch…” (Trò chuyện với nhân vật của mình) … Những tên đất tên làng tên sông tên rạch “đều mang tên người khai phá buổi đầu” đó là một đặc trưng văn hóa - địa dư Nam Bộ. Môi truờng sông nuớc gắn với tên riêng nguời “mở cõi” thành những địa danh: bến Tháp, đìa Sấu, bưng Heo, gò Me, đìa Hưng…“những đìa Sấu bưng Heo gò me sông Cũ/ đã mọc rễ vào trí nhớ” (Những người đi tới biển). Chiếc ghe, xuồng là vật thân thiết của người Nam Bộ ở vùng đất lắm sông nhiều kinh rạch: “thuyền độc mộc, xuồng, mũi xuồng” (Những người đi tới biển); “xuồng, xuồng ba lá” (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc); …“tôi nhớ những đồng sen bát ngát ở Tháp Mười, xuồng chúng tôi bơi suốt mấy giờ liền trong hương sen” (Bến cá chiều thu). Từ đặc điểm nước lên xuống ngày 2 lần ở đồng bằng sông Cửu Long mà người ta có nhiều tên gọi về nước. Trạng thái của nước xuất hiện dầy đặc và lặp đi lặp lại trong sáng tác của Thanh Thảo: “nước rong”, “nước ròng”, “nước lớn ròng”, “nước lợ”, “xuôi con nước, “mùa nước nổi”, “nước giựt”…
Thực tế vùng này hoàn toàn là vùng hoang dại, đất đai trũng úng, sình lầy khắp nơi, sông rạch chằng chịt, âm u, là môi trường rất thích hợp cho các loài các thú sinh sôi nảy nở phát triển: kình, sấu ở sông nước đầm lầy; trên cạn thì rừng gai góc hiểm trở, lại thêm rừng sác ven biển. Hùm hạm cọp hổ beo, gấu, trăn, sói rừng tha hồ tung hoành chiếm lĩnh cuộc sống con người: “mễn tác, cọp sấu, trâu, heo, rắn, hổ, sóc, vắt xanh, voi, muỗi, đìa Sấu, bưng Heo…” (Những người đi tới biển); “khỉ, rắn, heo, sấu, muỗi vắt, cù lần kêu, cọp gầm, kình, cú…” (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc); “rắn, chim diều, cúm núm, muỗi vắt, cú, rắn, hổ…” (Cỏ vẫn mọc)...
Trong nhà người Nam Bộ mắm là thức ăn dự trữ quanh năm. Ăn cá mắm là thói quen được hình thành do môi trường tự nhiên. Họ đã tận dụng lương thực sẵn có để tạo nên nguồn dinh dưỡng ngon bổ tiện lợi này: “Dòng sông bữa cơm canh chua mắm tép dưa cà” (Những người đi tới biển). Cứ thế thế bao lớp người đến đây đều có thói quen như thế dần dần tạo nên một nét văn hóa ẩm thực riêng của miền sông nước:
Con thuyền nào chở thầy trong những ngày lưu lạc mái lá dừa nước nào che mát thầy giữa nắng trưa gay gắt lu nước ngọt nào thầy đã dùng bên bụi ớt bụi sả quen thuộc của nhà quê ta và món mắm cá lóc chưng be rượu đế thơm mùi gạo vài người bạn tâm đắc” (Trò chuyện với nhân vật của mình).
Thức ăn đa dạng làm nên nét đặc sắc trong ẩm thực Nam Bộ. Món ăn đồng quê đã ăn sâu trong tiềm thức con người Nam Bộ, ăn sâu đến mức, Thanh Thảo tưởng chừng như nó đã biến thành những khúc đồng dao nghêu ngao trên vành môi trẻ con Nam Bộ:
cá lóc nướng trui
ươn xào xả ớt
bống kèo kho khô
nào chuột nào rắn
ngó sen lục bình (Những người đi tới biển)…
Cá bống kèo, lươn, rùa, rắn, ếch, chột đồng, con đuôn chà là, dơi, quạ là những món ngon đãi khách được nhắc đến qua tưởng tượng của Đồ Chiểu:
Chắc nắng phải xanh lắm nơi những chùm lá bầy trẻ nhỏ lội dưới rạch bắt cá kèo tiếng chúng hò reo lấp lánh qua các khu vườn (Trò chuyện với nhân vật của mình).
Và tất nhiên, văn hóa ẩm thực Nam Bộ không bao giờ thiếu được chất men với loại rượu đặc trưng Nam Bộ: Rượu đế. Nhậu thì dân Việt vùng nào cũng nhậu, Quảng Ngãi của Thanh Thảo cũng nhậu nhiều, nhưng cái cách miêu tả này của Thanh Thảo thì đúng là cuộc nhậu của ẩm thực Nam Bộ:
nhớ tiếng một loài chim kêu trăng
lộ đá nhỏ rừng cây thưa in thẫm bóng
mình và thằng Hùng Nam chạy bộ đi mua rượu
“tiệc cu xanh” mở bên sông Vàm Cỏ
Mười mấy thằng lính uống hai mươi lít rượu
Quắc cần câu (Metro).
Không kể khi nhậu ở Nam Bộ, cả khi nhậu ở một nơi đặc biệt khác tận ngoài Bắc Bộ, vì điều kiện không cho phép, không có rượu đế thì cũng không thể nào quên, miễn là có rượu để “lai rai”:
Ngày khánh thành đường dây 500 KV
Tôi vào trại giam Thanh Xuân thăm anh Vũ Ngọc Hải
Lẽ ra mình nên mang chai rượu đế
Nhưng sợ phạm quy nên
Tôi mang theo một chai sâm banh
Khui rất nổ
Hai anh em ngồi lai rai
Uống rượu trong tù không biết sướng hay khổ
Uống rượu trong tù lòng mừng quá cỡ (Dạ, tôi là Sáu Dân).
Đúng là rặt ri cách nhậu Nam Bộ, cho dù…
Viết về cuộc sống ở vùng đất phương Nam mà không đề cập đến vấn đề này là bỏ qua một nét văn hóa ẩm thực đặc sắc mang sắc thái miệt vườn và sông nước. Các yếu tố văn hóa đó đã cuốn hút Thanh Thảo. Và điều đó đã làm nên sự hấp dẫn, sinh động, lôi cuốn người đọc qua tài năng diễn đạt, qua cách phản ánh trung thực, chân chất và không kém phần sắc sảo, nhạy bén của nhà thơ. Dưới cái nhìn của một nhà thơ tài năng, cách phản ánh vùng đất và cuộc sống con người Nam Bộ thật sự gây ấn tượng với những độc giả khó tính.
2.2. Sinh thái và văn hóa miệt vườn
Bên cạnh không gian sinh thái và các giá trị văn hóa truyền thống chung của dân tộc, vùng đất Nam Bộ còn có môi trường sinh thái những giá trị văn hóa đặc trưng mang đậm tính quần chúng, do quần chúng lao động sáng tạo nhằm tăng cường sức lao động, đồng thời kiến tạo thêm niềm vui, nuôi dưỡng tình cảm sâu sắc trong lòng trai gái nơi đồng ruộng nhọc nhằn. Văn hóa miệt vườn Nam Bộ nổi bật nhất là hát “Đàn ca tài tử”. Đó là những câu hò đối đáp, từ trong nhà ra ngoài ruộng, có nhiều ý nghĩa tác động mạnh tới đời sống con người phương Nam như: hò cấy, hò khoan, hò thơ, hò xay lúa, hò giã gạo, hò thẻ mực…
Cái làm nên thần thái của ca dao - dân ca Nam Bộ, trước hết và trên hết, không phải là ở chức năng phản ánh, chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, mà chính là chức năng thư giãn, giải trí. Chính người bình dân Nam Bộ, từ những hoài vọng về quê hương cố xứ ở đàng ngoài, từ cuộc sống vất vả trăm bề của thời khai hoang khẩn đất, họ đã “hà hơi” cho ca dao - dân ca Nam Bộ sống dậy, mang dáng vóc của vùng đất đang được kiến tạo từng ngày. Thiên nhiên vùng châu thổ với những nét khu biệt đã làm phong phú bức tranh thể loại văn hóa dân gian Nam Bộ: “Chính môi trường sông nước ở đây đã làm nảy sinh những câu hò, điệu hát trên sông”(1). Sắc thái văn hóa đó dưới cái nhìn của một “nhãn quan” tinh tế như Thanh Thảo được dịp “thỏa sức” bay bổng:
chỉ có một chiếc xuồng nhỏ đang xuôi con nước
từ chiếc xuồng vọng lên tiếng hò mênh mang...
…có phải đó là tiếng hò của anh chài Lịch
người vừa chỉ huy trận đánh tàu khi chiều?...
…Gió thổi lạnh. Tiếng đờn im bặt. Đột nhiên nổi lên những nhịp hò dô, những bóng thuyền thấp thoáng lướt trên sông... Khi những bóng thuyền đã mất hút, nghe văng vẳng như có ai ngâm thơ, giọng rất trầm ngâm (Cỏ vẫn mọc)…
Khắp đất nước ta, nơi nào cũng có xuất hiện, định hình những làn điệu dân ca trữ tình rất ngọt ngào, đáng yêu. Có không ít làn điệu đã trở thành đặc sản của địa phương, khu vực, như hát ả đào, hát nói, hát đám, hát quan họ, hát huê tình, nói thơ, hò lờ… Nhưng chung nhất và phổ cập nhất của thời trước là “Nam lý, Bắc thơ, Huế hò”. Dân ca Nam Bộ xưa còn được các nhà nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian xếp đứng đầu trong các điệu hát: “Nhứt Lý, nhị Ngâm, tam Nam, tứ Oán”. Dân ca Nam Bộ đi vào những chủ đề rất cụ thể, gần gũi như: lý con sáo, lý ngựa ô, lý con cua, lý con lươn, lý bánh ít, lý cái kèo, lý vá áo... Và sinh hoạt hát ở Nam Bộ xưa là nét văn hóa quần chúng ở nhiều hình dạng, thể điệu, tính chất trình diễn… tài tử để làm nên “Đờn ca tài tử Nam Bộ” - Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Tài tử gặp tài tử chăng! Có lẽ vì thế mà nó đi vào trường ca Thanh Thảo một cách rất tự nhiên:
ai đưa đàn sáo sang sông
mà gió đập ngẩn ngơ hàng thốt nốt (Những người đi tới biển).
Có lẽ chính khúc hát bình dân Nam Bộ này: “Ai về giồng dứa mà qua truông/ gió đưa lu là bông sậy ơi nàng ơi/ bỏ bỏ buồn ơi nàng ơi mà cho anh” đã thấm vào hồn mình để Thanh Thảo nâng cánh bay lên cùng với thi ca:
gõ mái chèo này, ca đôi câu
chừng nhẹ bớt đường đời
bỏ buồn cho em bỏ buồn cho tôi
hỡi người qua truông về giồng dứa
nỗi nhớ rối bời dây choại
biết mọc lối nào níu được chân đi (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc).
Một hình ảnh đẹp khác nữa trong thơ Thanh Thảo khi ông đem điệu lý từ khúc dân ca “Lý chiều chiều” để bộc lộ tâm sự, giãi bày những điều mắt thấy tai nghe giữa cuộc đời:
tôi đã nghe cô gái ấy hát một lần ở Huế
cô gái Hà Nội mà không Hà Nội
cô Huế mà không Huế
cô hát “lý chiều chiều” dân ca Nam Bộ
mà không Sài Gòn… (Metro).
Bài hát Lý chiều chiều Nam Bộ: “Chiều chiều ra đừng tây lầu tây/ thấy cô tang tình gánh nước/ tưới cây tưới cây ngô đồng. Xui ai xui trong lòng, trong lòng tôi thương. Thương cô tưới cây ngô đồng” đã nói hộ Thanh Thảo, đó là sự chạnh lòng thương cảm với những mảnh đời Thanh Thảo gặp gỡ.
Về vấn đề này, đã có nhiều người hỏi tôi: So với dân ca Bắc và Trung Bộ, vì sao bài ca “Sáu câu Vọng cổ”, làn điệu chính của sân khấu cải lương Nam Bộ lại dài như thế? Tôi trả lời phỏng đoán rằng: Do môi trường sinh thái! Sông nước dài rộng, mênh mông là thế, bèo lục bình cứ chầm chậm trôi lững lờ không biết đâu là nơi dừng lại, hát hết cả “Sáu câu vọng cổ”, hết cả tuồng Cải lương vẫn chưa thấy đâu là bến là bờ thì bài hát làm sao ngắn được!
Nét đẹp trong sinh hoạt lao động miệt vườn hàng ngày của người Nam Bộ là phát cỏ vì môi trường sinh thái ở xứ sở phù sa này, cỏ không được phát thường xuyên sẽ chen chân cùng lúa(1). Chính công cụ lao động dùng để phát cỏ này đã để lại ấn tượng mạnh trong thơ Thanh Thảo: “là mềm mại đường bay lưỡi phãng/ nhịp điệu bàn tay vãi giống” (Những người đi tới biển) ;“ai đầu tiên rèn chiếc phãng/ cho cánh tay phát cỏ nhịp nhàng như múa” (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)... Khi bọn xâm lăng, lũ bán nước, những kẻ gieo rắc tội ác, đến đất này, thậm chí khi nhắc đến vai trò sứ mệnh của thơ là dùng ngòi bút của mình để chiến đấu chống lại cái ác, cái xấu, phải “đâm gian, trừ bạo”, Nguyễn Đình Chiểu gọi nó là “lưỡi phãng thơ”. Mượn lời cụ Đồ, Thanh Thảo tuyên bố sứ mệnh của thơ ca và của mỗi nhà thơ:
Bắt chúng cúi đầu trước ngòi bút dùng lưỡi phãng thơ sắc ngọt phạt chúng như phạt cỏ đó là công việc của mỗi nhà thơ chân chính (Trò chuyện với nhân vật của mình).
Miệt vườn Nam Bộ là được nối nhau bằng hệ thống kinh rạch độc đáo: bờ sông không đắp đê, lại bị cắt từng chặng ở ngã ba ngã tư, muốn qua rạch nhỏ thì phải “cầu tre lắc lẻo”, “cầu ván đóng đinh”. Mỗi cây cầu là không gian quê hương, đất nước, là cảnh vật quen thuộc nơi làng xã, thôn xóm. Những cây cầu khỉ, cầu tre, cầu dừa đã trở nên quen thuộc, đi vào tâm thức của người dân Nam Bộ hiền lành và hiếu khách, trở thành nét văn hóa rất riêng. Nét đẹp đó có mặt khá nhiều trong thơ Thanh Thảo ngợi ca sự can trường của người Nam Bộ:
Những vực sâu nào con người phải tụt xuống để từ đó leo lên những đỉnh cao những cây cầu lắt lẻo nào con người phải đi qua để tìm gặp chính mình (Trò chuyện với nhân vật của mình).
Những hình ảnh bình dị của đất và người Nam Bộ được Thanh Thảo “cất công” phát hiện và nâng lên thành những giá trị nghệ thuật chân chính. Dù là những cái nhỏ nhoi, bình thường nhưng với Thanh Thảo đó là những món quà lớn, những kỉ niệm đẹp đánh dấu mối quan hệ thân thiết của ông với vùng đất này. Nhưng nếu thiếu một “cái tâm” và một bản lĩnh, Thanh Thảo khó truyền tải được những thông điệp cuộc đời của đất và người Nam Bộ trong thơ ca ông.
2.3. Không gian sinh thái và văn hóa tín ngưỡng, phong tục, tập quán
Người Việt nói chung, trong khi hướng tới tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và con cháu mình, không bao giờ quên truyền thống nhớ nguồn, hướng về cội nguồn. Do đó tục thờ cúng tổ tiên là một trong những phong tục thiêng liêng, là truyền thống tốt đẹp của văn hóa Việt Nam. Với Nam Bộ, do sống trong môi trường sinh thái tự nhiên của vùng đất hoang vu “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tợ bánh canh” mới được khai mở của những “lưu dân” tha phương, nên tín ngưỡng và phong tục, tập quán nơi đây có những đặc thù riêng của quá trình hỗn dung, tiếp biến.
Trong chiến tranh, vật lộn với muôn vàn gian khó, giữ được tính mạng mình còn khó huống hồ những việc khác. Thế mà anh Út - người bí thư - vẫn không quên truyền thống nhớ nguồn:
túp lều cất vội bên kinh…
…nhà không đủ che nắng mưa
thủy chung còn ba ông táo
đấu lưng giữ lửa đêm ngày
trên nóc hầm dựng một trang thờ
mùi nhang phảng phất
trong hương thơm cơn gió vẫn đi về
nơi đoàn tụ những ai còn (Những người đi tới biển).
Thật vậy, trong nhà mà không có “mùi nhang đèn” nó lạnh lẽo biết dường nào! Thắp thêm ngọn lửa, anh Út như được tiếp thêm sức mạnh và cảm thấy ấm lòng khi đi xa… Những người còn hay mất, trước nay vẫn sống một cuộc sống như tạm bợ, lênh đênh. Cái nghèo, cái đói cái khổ bám họ như bóng với hình. Nhưng nó không đáng sợ bằng mất người thân. Dù lam lũ sau “những mái chòi khuất sau đưng đế” nhưng trong họ vẫn ấm áp tình người. Với phong tục tang ma Nam Bộ, “Thông thường sau khi chôn cất người quá cố khoảng 3 ngày thì gia chủ tổ chức mở cửa mả tại mộ phần người chết… Trong khi làm lễ, gia chủ phải có con gà con dắt theo để nó kêu lên khiến hồn người chết nghe tiếng gà thức dậy bởi họ quan niệm người chết sẽ ngủ mãi mãi nếu không có tiếng gà đánh thức. Con gà con còn biểu tượng cho hình ảnh thiếu vắng tình thương của cha mẹ”(1). Chính phong tục độc đáo này đã giúp Thanh Thảo có được những câu thơ đẫm chất Nam Bộ không thể lẫn vào nơi nào khác:
và thím Ba - người vợ tảo tần
người mẹ bốn lần sinh
ba lần dắt gà quanh mồ con giặc giết (Những người đi tới biển).
Tin tưởng “Xác là thể phách, hồn là tinh anh”, những người đã khuất ngày đêm vẫn phù hộ, độ trì cho những người còn sống tiếp tục sứ mệnh cứu nước, nung nấu ngọn lửa giết thù:
Những đóm nhang trên bàn thờ không chớp
Cháy đỏ mắt một niềm dò hỏi đêm sâu (Những người đi tới biển).
Mảnh đất Nam Bộ mà vùng sinh thái là đất đai màu mỡ trù phú là điều kiện sống vô cùng thuận lợi cho rất nhiều loại thú. Quan niệm dân gian, Chuột rất có tính linh nên nhiều gia đình kiêng nể không dám gọi tên, chỉ gọi là Ông Tý. Nhưng chuột phá lúa rất dữ dội, mỗi khi mùa lúa chín, chuột ăn no béo cũng là lúc thịt nó ngon nhất. Khi gặt lúa người ta chừa lại một đám nhỏ, lũ chuột tức khắc sẽ chạy dồn vào đó, vì ở đó vừa kín đáo vừa có lúa ăn. Sau đó, người ta dùng lưới bao quanh, chừa một đường thoát, đặt ở đấy cái lợp - phương tiện bắt cá bằng tre trúc- rồi vào “dậm cù”, chuột chạy tứ tung, rồi chui vào bẫy lợp được giăng sẵn. Không loại trừ mọi thứ, những cái Thanh Thảo gặp và phát hiện bỗng trở nên sinh động, lạ lẫm bất ngờ dưới bàn tay “ma thuật” của mình. Từ cách “dậm cù” đó, Thanh Thảo tái hiện cách mà bọn gian manh đã làm đối với những người yêu nước:
Những tiếng còi tiếng mõ tiếng phèng la của bọn dân vệ truy lùng “Việt Cộng nằm vùng” theo kiểu người ta dậm cù, còn lói nhói trong đêm (Trò chuyện với nhân vật của mình).
Nam Bộ là vùng đất có nhiều phong tục, tập quán, tín ngưỡng đa dạng nhất nước. Lướt qua một vài nét phong tục tập quán tín ngưỡng nơi đây khi khảo sát về thơ và trường ca Thanh Thảo ta thấy ông có cái nhìn rất thiện cảm về đất và con người Nam Bộ. Chỉ có thể yêu Nam Bộ đến tận cùng, Thanh Thảo mới có thể viết nên những tác phẩm chan chứa ân tình về vùng đất này.
Vĩ thanh
Qua việc tìm hiểu “Sinh thái và văn hóa Nam Bộ trong thơ và trường ca Thanh Thảo” nhìn từ nội dung trữ tình và phương thức thể hiện, ta thấy Thanh Thảo rất gắn bó với mảnh đất này. Bắt đầu từ môi trường sông nước, hiện thực cuộc sống, cho đến những trang sử hào hùng dựng nước, giữ nước, thậm chí đến từng tính cách con người, những nét văn hóa đậm màu sắc Nam Bộ. Điều đó đã khẳng định vốn sống Nam Bộ dồi dào của nhà thơ. Chính vốn sống phong phú này đã đưa Thanh Thảo lên vị trí cao trong thơ ca Việt Nam đương đại. Thanh Thảo đã viết về vùng đất, con người Nam Bộ bằng cả một sự yêu thương, chắt lọc từ sự rung động của chính ông.
Lý giải vì sao Thanh Thảo lại ưu ái với Nam Bộ trong sáng tác của mình như thế, theo tôi nghĩ có ba lý do cơ bản: 1) Thanh Thảo là một nhà thơ nghĩa khí nên trọng những con người nghĩa khí - một đặc trưng của người Nam Bộ. Điều này đã được Chu Văn Sơn khẳng định trong bài viết “Thanh Thảo - Nghĩa khí và cách tân”(1). Cũng chính vì vậy mà trong thơ ca của ông luôn ưu ái xây dựng hình tượng nghững con người nghĩa khí như: Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Lê Đại Cang, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Lê Văn Duyệt, Trương Quang Trọng, Võ Văn Kiệt,… 2) Vùng dất Nam Bộ vốn dung nạp nhiều lưu dân miền Trung, đặc biệt lại có liên hệ mật thiết với quê hương Thanh Thảo (Quảng Ngãi) qua các gương nghĩa khí của những anh hùng Nam Bộ quê Quảng Ngãi như Trương Định, Lê Văn Duyệt… Hiện nay, ở Quảng Ngãi vẫn còn mộ và đền thờ Lê Văn Duyệt, đặc biệt là Đền thờ Trương Định được xây dựng uy nghiêm, bề thế ngay trên đỉnh núi quê hương người anh hùng với kinh phí chủ yếu là đóng góp tự nguyện của nhân dân hai tỉnh Tiền Giang (nơi ông dấy nghĩa, đặt mộ và đền thờ sau khi mất) và Quảng Ngãi (nơi ông sinh ra và trưởng thành trước khi vào Nam); 3) Và trực tiếp nhất đó chính là trong quãng đời tuổi trẻ đầy năng lượng của một sinh viên vừa ra trường đã xung phong vào Nam với 5 năm sống, chiến đấu trên vùng đất Nam Bộ cùng vô vàn những kỷ niệm khó có thể nguôi quên. Xin được minh chứng những điều này bằng trường ca mới nhất viết về Nam Bộ của Thanh Thảo “Dạ, Tôi là Sáu Dân”:
Quê tôi ở Vĩnh Long
Không biết vì sao mình yêu Quảng Ngãi
Có lẽ tổ tiên từng ở đó
Hay không phải?
Nhưng tổ tiên tôi là lưu dân
Không lang thang từ Bắc vào Trung rồi vào Nam
Thì còn đường nào đi nữa? (Dạ, tôi là Sáu Dân).
Và đây là hình ảnh của chính nhà thơ Thanh Thảo qua cảm nhận của ông Sáu Dân khi ông kể với một người bạn thân của mình ở Quảng Ngãi:
Có một nhà thơ hồi ấy trẻ
Hình như bây giờ đang viết cái gì về tôi
Tôi chỉ gặp anh một lần đường rừng vắng vẻ
Nhưng tôi biết anh ngày ấy ngang hơn cua (Dạ, tôi là Sáu Dân).
Và vì vậy, sinh thái và văn hóa Nam Bộ đã trở thành chủ đề thường trực trong sự nghiệp Thanh Thảo với những nét thể hiện riêng biệt của một nhà thơ vốn được mệnh danh là “Nghĩa khí và Cách tân”.
-----------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* THƠ
1- Thanh Thảo (1978), Dấu chân qua trảng cỏ, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
2- Thanh Thảo (1986), Tàu sắp vào ga, Hội Văn học Nghệ thuật Nghĩa Bình
3- Thanh Thảo (1987), Bạch đàn gởi bạch dương, Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình.
4- Thanh Thảo (1988), Từ một đến trăm, Nxb Đà Nẵng.
5- Thanh Thảo, Nguyễn Đỗ (1988), Bến cá chiều thu, Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình
6- Thanh Thảo (2007), 1 2 3, Nhà Hội Nhà văn, Hà Nội
7- Thanh Thảo (2008), Thanh Thảo 70, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
8- Thanh Thảo (2020), Chờ mãi cơn mưa rào rất lạ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
* TRƯỜNG CA
1- Thanh Thảo (1977), Những người đi tới biển, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
2- Thanh Thảo (1982), “Những nghĩa sĩ Cần Giuộc”, Nhữngngọn sóng mặt trời, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
3- Thanh Thảo (1982), “Bùng nổ của mùa xuân”, Nhữngngọn sóng mặt trời, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
4- Thanh Thảo (1982), “Trẻ con ở Sơn Mỹ,”Nhữngngọn sóng mặt trời, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
5- Thanh Thảo (1985), “Đêm trên cát”, Khối vuông rubich, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội
6- Thanh Thảo (1985), Khối vuông rubich, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
7- Thanh Thảo (2002), Trò chuyện với nhân vật của mình, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
8- Thanh Thảo (2002), “Cỏ vẫn mọc”, Trò chuyện với nhân vật của mình, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
9- Thanh Thảo (2009), Metro, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
10- Thanh Thảo (2012), Chân đất, Nhà Hội Nhà văn, Hà Nội
11- Thanh Thảo (2016), Đám mây hình người thợ săn và con chó, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
12- Thanh Thảo (2016), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
13- Thanh Thảo (2017), Người khiêng võng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
14- Thanh Thảo (2018), Hiển thánh tuổi 25, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
* TIỂU LUẬN – PHÊ BÌNH – CHÂN DUNG – HỒI ỨC
1- Thanh Thảo (1995), Ngón thứ sáu của bàn tay, Nxb Đà Nẵng.
2- Thanh Thảo (2004), Mãi mãi là bí mật, Nxb Lao động.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.