TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
THANH THẢO - NGƯỜI CHỞ SỬ THI BẰNG PHƯƠNG TIỆN HIỆN ĐẠI
THANH THẢO - NGƯỜI CHỞ SỬ THI BẰNG PHƯƠNG TIỆN HIỆN ĐẠI
TS. MAI BÁ ẤN
(Đọc trường ca Metro của Thanh Thảo)
Từ trước đến nay không ít người nghĩ rằng, trong thơ ca Việt Nam,Thu Bồn mới là “chàng thi sĩ viết trường ca” (1) vì người ta thống kê ông viết đến 12 trường ca. Năm 2008, bằng lý thuyết về Sử thi và Trường ca, trong luận án Tiến sĩ của mình, chúng tôi đã loại bỏ 4 bài thơ dài của Thu Bồn (“Tiếng hú người Diôloa”, “Quê hương mặt trời vàng”, “Thông điệp mùa xuân” và “Hà Nội ngày nào”) ra khỏi trường ca và thuyết phục được Hội đồng cấp Nhà nước rằng: Thu Bồn và Thanh Thảo là hai nhà thơ viết nhiều trường ca nhất trong các nhà thơ hiện đại Việt Nam (mỗi người 8 trường ca). Thế mà đùng một cái, năm 2009, Thanh Thảo chính thức công bố và xuất bản trường ca thứ 9 của mình: “Metro” để trở thành nhà thơ Việt Nam viết nhiều trường ca nhất cho đến thời điểm này.
“Metro” được Thanh Thảo viết vào năm thứ ba (63 tuổi) sau khi anh chính thức nhận sổ hưu. Có một thời, sau những năm 80 của thế kỷ trước, nhất là khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều người cho rằng: thể loại trường ca (sử thi hiện đại) xem như đã hoàn thành sứ mạng vẻ vang của mình vì xã hội hiện đại không còn chỗ đứng cho sử thi. Thế nhưng không! Trường ca đã và đang tiếp tục ra đời, thậm chí là gần đây, thể loại này lại xuất hiện càng nhiều với nhiều thử nghiệm mới. “Metro” của Thanh Thảo cũng là một minh chứng.
Như vậy, tính từ “Khối vuông ru-bích” đến “Metro”, Thanh Thảo đã ngưng viết trường ca trên 25 năm. Vậy thì, từ đỉnh cao thành công trong sáng tạo cấu trúc thể loại của “Khối vuông ru-bích”, với “Metro”, liệu Thanh Thảo có tiếp tục làm mới trường ca? Có lẽ trước khi công bố trường ca này, Thanh Thảo cũng đã suy nghĩ kỹ càng, và với một nhà thơ luôn luôn có tư tưởng cách tân, việc anh tự tin công bố tác phẩm trước công chúng đã là một minh chứng cho ý định tiếp tục làm mới thể loại của mình. Đứng về mặt cấu trúc tác phẩm, nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá cao tính sáng tạo và hiện đại của cấu trúc trường ca “Metro”(2), nhưng về chất sử thi (vốn được xem là đặc trưng của thể loại trường ca) thì không ít người còn… nghi ngờ bởi cái giọng điệu thơ và ngôn ngữ thơ đã thoát ra rất xa những “vùng sử thi” để vươn tới giọng nói đời thường và ngôn ngữ tếu táo của thơ ca đương đại. Cái sự làm mới trường ca của Thanh Thảo, qua “Metro” chính là ba yếu tố chính này: Cấu trúc tác phẩm, giọng điệu thơ và ngôn ngữ thơ.
1. Chở sử thi ngược chiều Metro
“Metro” được cấu trúc hai chiều xuôi ngược giữa “ký ức” quá khứ và hiện tại trên cùng một đường “ray”: “15h23’ cùng ngày/ những khoảnh khắc ga/ đoàn tàu thời gian băng tới/ ký ức vùn vụt trôi ngược lại/ metro/ hai trong một/ chạy tới chạy lui/ trên cùng một đường ray/ o o o o o” (tr.30). Ngoài phần mở đầu mang tính chất “chuẩn bị khởi hành” khá kỹ càng (dài 107 câu thơ), “Metro” được cấu trúc thành 20 đoạn (258 câu thơ) với những tít đề (in đậm) mang tính chất tượng trưng, vừa là thời gian chi li đến cả ngày, giờ, phút của con tàu dừng đỗ; vừa là khoảnh khắc nhà thơ đang lia tay gõ bàn phím theo ngày, giờ, phút hiện lên trên máy tính; lại vừa là thời gian của dòng cảm xúc tác giả tuôn ra theo sự dừng đỗ của “Metro”, của thời gian. Việc chạy hay dừng, giờ xuất phát và giờ dừng đỗ ở các ga của “Metro” đã được lập trình, thế nhưng việc xuất phát và dừng đỗ của cảm xúc nhà thơ khi ngược chiều về quá khứ lại rất tự do, vì thế độ dài ngắn trong từng tiết đoạn của “Metro” là phi thời gian (không thể tính bằng số lượng câu thơ), có khi chỉ dừng đỗ bởi một câu thơ: “11h23’ cùng ngày/có thuốc nào cứu được quá khứ?” (tr.28) rồi lập tức chuyển sang “chặng” khác với chỉ 3 dòng thơ tưởng chừng như vô nghĩa, như một lời kinh được đọc theo nhịp “mõ” chuyển bánh của “Metro”, lan tỏa, lan tỏa ra đến tận cùng: “1 phút sau/ namo nano namo nano/ metro metro metro/ o o o o o” (tr.29); có khi dừng lại rất lâu với cả một phần dài cho dù “Metro” vẫn cứ bon bon chạy. Sử thi quá khứ hòa trộn vào trần trụi thực tại khiến hành trình cảm xúc của nhà thơ cứ theo tuyến chạy của “Metro” cuốn người đọc theo đi. Tàu cứ dừng, rồi chạy (tất nhiên chỉ dừng ở những ga chính), thời khắc báo từng phút từng giờ theo lập trình của “Metro”, nhưng dòng chảy ký ức của cảm xúc nhà thơ (đang ngồi trên toa và xuôi theo tuyến chạy của “Metro”) thì cứ tuôn về quá khứ như không quan tâm tới thời gian, cứ như trôi về bất tận:“15h39’ cùng ngày/ thời gian/ không có ga kết/ nhưng Trường Sơn đi mãi cũng hết/ khi tôi đang ở giữa Đồng Tháp Mười/ một Trường-Sơn-nước/ tôi cứ nghĩ / mình đã qua núi đã qua lửa/ đã qua nước/ kim mộc thủy hoả thổ trọn gói rồi/ thế là xong thôi!” (tr.35). Tàu chạy chẳng dừng mà cảm xúc nhà thơ lại cứ “dùng dằn” khiến “Metro” cũng đôi lần bị rị kéo, lắc lư cùng cảm xúc:“điều bất ngờ/ 37 năm sau/ tôi mãi còn/ dùng dằng trên bãi cát/ ký ức” (tr.36).
Mà suy cho cùng, thì cái nguyên nhân khiến nhà thơ ngồi lên “Metro” để làm cuộc hành trình ngược này cũng là do: sống trong hiện tại trần trụi mà lòng nhớ khôn nguôi về một thời quá khứ bi hùng đó thôi: “nhiều đêm nằm mơ vã mồ hôi/ thấy trước mặt mình núi dựng đứng/ nhiều tháng năm sống chung bụi bẩn/ chỉ khát được tắm dòng sông Bạc thêm một lần” (tr.6). Nhà thơ làm cuộc hành trình cũng bởi nghiệm ra rằng: cái tưởng mất thời quá khứ chiến tranh lại là cái được, và cái tưởng được trong hiện tại hòa bình bây giờ lại là cái mất, thậm chí là mất nhiều hơn: “tôi được gì không? chẳng được gì/ hàng triệu người đi qua con đường này cũng thế/ có những cái mất là được/ có nhiều cái được mất nhiều hơn” (tr.6).
Rõ ràng cái sự lập trình tuyến chạy, ga dừng của “Metro” hiện đại (cấu trúc bề mặt tác phẩm) với những giờ phút rất cụ thể kia chẳng qua là một “cái cớ”, vì thế, có lúc nhà thơ chẳng còn nhớ đến thời giờ, cũng chẳng biết ga nào mình đã đi qua, ký ức sử thi cứ miên man giữa thực và mơ, hiện tại “cửa Phật” và quá khứ “cửa rừng” đan cài, “cây bằng lăng” rừng Trường Sơn với “cây bồ đề” của một ngôi chùa hiện tại hòa bình lẫn bóng trong nhau, tỏa xuống đời những cô gái Thanh niên xung phong âm âm trong tâm thức mình là sự trộn lẫn giữa “Tiếng bom và tiếng chuông chùa”(3): “chúng ta đã qua ga…/ nào nhỉ?/ em gái thanh niên xung phong bức thư viết vội/ “mai em lên đường chúc anh nhiều may mắn…”/ có thể là anh may mắn hơn em/ những cô gái sau này xuống tóc/ những cô gái gõ mõ gõ chuông lương vương khói hương trong trường ca Phạm Tiến Duật/ họ đi từ cửa rừng tới cửa Phật/ xin một chút an bình/dứt căn duyên/ quên đi tình yêu quên đi chồng con/ cây bằng lăng hay cây bồ đề/ cây nào chẳng là cây/ hạnh phúc” (tr.23). Không những thế, chính quá khứ chiến tranh đã được lùi về xa nên hiện thực của chiến tranh được tác giả phản ánh còn thực hơn cả những tác phẩm được viết ngay trong thời chiến. Và chỉ trong vòng “8 phút”, ngồi trong toa “Metro” đang chạy, cảm xúc Thanh Thảo đã băng băng chạy “thục mạng” về Trường Sơn thời trai trẻ để “thu gom” cả “38 năm” những kỷ niệm sử thi:“8 phút / anh có thể ngược đường/ 38 năm/ trong 8 phút?/ chạy thục mạng về thời trẻ trai cánh rừng trước mặt/ chạm một cuộc tình không cán đích/ có những cái không tìm/ mà gặp/ như giò phong lan nở cao 50 mét/ chiếc lá đỏ bâng khuâng quên tháng quên ngày/ cháy lặng thầm chót đỉnh Trường Sơn/ những chị sóc bay những chú gà rừng/ anh đã thấy dọc lối mòn liên trạm/ một chút mủi lòng chiều mây nặng/ khi nhóm lửa bên bờ suối cạn/ nhớ em/ một bát canh không thể nghèo hơn/ hai thằng lính thu dung sốt rét/ một khoảng rừng gãy gập/ lênh loang bóng tối/ một người lính tâm thần hú vang/ thoang thoảng mùi hoa ngọt như hoa dẻ” (tr.26-27). Tôi có cảm giác chính “Metro” với lập trình “cô đặc” của thời gian nghệ thuật là môi trường để cảm xúc nhà thơ “mở rộng” không gian nghệ thuật nhằm đáp ứng độ bền sử thi “hoành tráng” của một trường ca.
Đường Trường Sơn giờ đã là đường cao tốc, nhà thơ lại đang ngồi trong toa “Metro” siêu tốc, vậy mà rồi, quá khứ lại hiện về mồn một. Sáng trong, long lanh những giọt nước mắt tròn:“trên những con đường giờ đây cao tốc/ ngày ấy em tôi trĩu lưng gùi cõng/ những thùng gỗ đựng toàn những hạt/ tròn tròn trong trong/ của mẹ của vợ của người yêu, tất tật/ nước mắt” (tr.34). Có cảm giác cứ mỗi thời khắc hiện tại chớp nháy trên máy vi tính (của tác giả), trên bảng điện tử (của Metro) là thời khắc của sự lan tỏa sử thi về cả quãng đời ký ức xa xăm: “em đi cùng anh đêm cuối cùng/…/ trước hồi còi khốc liệt hồi còi tiễn biệt/ ga Thường Tín/ buổi sáng ấy người ta không cho má anh tới tiễn con/ sợ bà khóc làm đau những thằng lính ra trận/ họ nhầm!/ nếu không có nước mắt người mẹ/ những đứa con sao tìm thấy đường về” (tr.19). Đây chính là những giọt nước mắt bi hùng của một thời quá khứ đã qua, mà có lẽ đến bây giờ, sau khi chiến tranh đã lùi xa trên 30 năm, sau khi người mẹ của nhà thơ đã trở thành người thiên cổ, sau khi những em gái Thanh niên xung phong thời ấy đã thành những người phụ nữ góa chồng già nua, côi cút… Thanh Thảo mới cô đúc những dòng lệ quá khứ kia thành hạt rồi kết thành chuỗi hạt kỷ vật ký ức sáng long lanh, tròn và trong với những dòng sử thi đủ sức lay động lòng người.
2. Giọng điệu thơ của hai chiều xuôi ngược
Những người đọc khó tính với thể loại trường ca có thể trách Thanh Thảo đã làm mất đi tính “hoành tráng, sử thi, kỳ vĩ” vốn có của thể loại này bởi những mảng đời riêng trần trụi qua một giọng thơ “thiếu nghiêm túc” ở một vài sân ga, kiểu như:“ga ni ga mô ri ?/ (xin chú thích: tiếng Huế/ nghe giống hệt tiếng Tây/ tạm dịch: ga này là ga gì ?)” (tr.21). Nhưng riêng tôi, khi nghiềm ngẫm kỹ dòng chảy của “Metro”, chất sử thi vẫn nổi trội ẩn đằng sau giọng điệu tếu táo đời thường này. Ở tiết đoạn “ga ni ga mô ri ?”nêu trên, chỉ vài câu “gợi” của giọng điệu thơ hôm nay ngắn gọn như là một “cái cớ” vậy thôi, rồi cảm xúc nhà thơ trôi về quá khứ sử thi với “nỗi nhớ miên man, mông lung”: “…ga nhớ/ ôi nhớ miên man nhớ mông lung nhớ đụp nhớ quàng/ 38 năm không hết nhớ/ 38 năm không biết quên/ những thằng bạn như cây rừng run rẩy/ xanh nhợt la lả/ những thằng bạn nói cười rồi chết như không/ như chẳng là gì cả” (tr.21). Hiện tại cơ chế thị trường đã gợi nhà thơ liên tưởng về quá khứ với những ký ức đầy đặc nỗi nhớ thế này, giờ đọc lên vẫn rưng rưng cảm xúc về một thời chinh chiến bởi giọng thơ không chỉ tuyền những ngợi ca. Cái thực làm rung động lòng người chính là… từ những vặt vãnh đời thường với giọng điệu bông đùa, Thanh Thảo dẫn người đọc về quá khứ một cách tự nhiên với những nỗi “nhớ miên man, nhớ mông lung nhớ đụp nhớ quàng”. Lại do… sống giữa thời buổi thị trường quá thừa bứa về vật chất khiến con người không còn biết đến cảm giác “thèm” gì nữa; cái sự “ớn” đã đẩy con người đến chỗ lãng quên quá khứ; nhà thơ lại “thèm” và dắt người đọc cùng biết “thèm” theo những “thứ rất vớ vẩn” một thuở rừng xanh; vậy là nhà thơ leo lên “Metro” tốc hành làm một “hành trình ngược”: “ăn gì cũng ngon nhớ gì cũng thèm/ mẹ ơi con người ta nhỏ bé lắm/ ba tháng trên Trường Sơn mới được húp bát canh rau muống đã đời/ mẹ ơi/ nhu cầu thường đơn giản/ bây giờ thỉnh thoảng/ con nghĩ không biết mình thèm cái gì/ hạnh phúc có khi/ là được thèm nhiều thứ rất vớ vẩn” (tr.10). Cái giọng điệu cà tửng này: “người ta bảo bệnh thấp khớp của những người lính Trường Sơn là do ngày trước ăn chay nằm đất/ nhưng tôi bảo/ thực ra không có chiếc giường nào dễ ngủ hơn chiếc-giường-đất lán hầm sau một chặng hành quân/ và những người giàu nhất thế giới hôm nay/ chỉ thèm được ăn một bát canh rau rừng không thịt không bột ngọt/ chúng tôi từng ăn” (tr.12) cũng chỉ nhằm để nêu lên một chân lý rằng: “có lắm sự thật/ bao cách nhìn/ Trường Sơn chỉ một” (tr.11). Vậy thì ai dám bảo rằng giọng điệu này không mang chất “hùng ca”! Giọng thơ kiểu này, rõ ràng rất hiếm tìm trong những trường ca của những thập niên 80 của thế kỷ XX trở về trước đó. Nhưng đây lại cũng chính là cái giọng điệu tiếp nối “rất Thanh Thảo” ở “Khối vuông ru-bích” trước đó 25 năm: “Có tiếng nói tình cờ làm đổi thay số phận/ Đây tiếng thì thầm của khoảnh khắc qua nhanh/ Ta đã dằn vặt vì một vài bậc lương, vì anh thủ trưởng quan liêu hay chị mậu dịch viên cửa quyền, vì bà vợ đoảng hay đứa con học hành lôm côm/ Có lúc nào ta hoàn toàn yên tĩnh trong một ô vuông xanh/ Hãy biết quý những gì không trở lại” (tr.12)(4). Vâng! Cái “ô vuông xanh” vốn là khát khao, mơ ước ấy không thể nào “yên tĩnh” được cả ở thời bao cấp lúc “khối vuông ru-bích” xoay tròn ở cuối thế kỷ trước, huống chi bây giờ đã là những năm cuối của thập niên đầu thế kỷ 21 hôm nay!
Chính vì đang nằm trong thời hiện tại của cơ chế thị trường và thời đại đô thị hóa, công nghiệp hóa với râm ran (của những tay cò đất), với oan khiên (của nông dân mất đất) về những thông tin “giải tỏa, đền bù” mà nhà thơ đã phát hiện ra “một Trường Sơn khác”. Trường Sơn mà cả thời chiến Thanh Thảo đã dấn thân mà vẫn chưa nhìn ra được (hoặc có nhìn ra cũng chưa trở thành cảm xúc thơ thời chiến). Giờ nhận ra mới thấy: Trường Sơn đạn bom, hào hùng còn ít “khốc liệt” hơn một Trường Sơn lặng thầm ở bề sau, bề sâu lẫn trong thâm u đại ngàn và ở tận cùng thẳm sâu trong “u uất” những cuộc đời, những trái tim “trắng toát thời con gái”: “ai đền bù/ ai giải tỏa?/ trái tim là trái tim đôi mắt là đôi mắt/ làm sao đổi làm sao bù/ còn một Trường Sơn khác/ bấy giờ anh chưa biết/ một Trường Sơn khốc liệt/ những đêm khuya vò võ một mình/ một Trường Sơn lặn vào nỗi nhớ mùi mô hôi đã tắt/ một Trường Sơn u uất/ trắng toát thời con gái” (tr.31). Theo M. Bakhtin thì đối tượng của sử thi là cái quá khứ dân tộc anh hùng, “quá khứ tuyệt đối”(5), như vậy, quá khứ càng lùi về phía “tuyệt đối” thì càng được nhận diện một cách trọn vẹn hơn. Vì lẽ đó, nếu ai đó sợ giọng điệu bông lơn ở “Metro” đánh mất yếu tố sử thi thì xin vững tâm, nội dung sử thi, bi tráng của trường ca vẫn được Thanh Thảo “chất đầy” trên các “toa tàu” của “Metro” hiện đại.Ai dám bảo những cô gái Trường Sơn “viết nhật ký như thủ dâm” này là không “hào hùng, kỳ vĩ”, không “xứng đáng được tôn vinh, ca ngợi” như M. Bakhtin đã nhắc ở trên?: “những cô gái hồi ấy viết nhật ký/ như thủ dâm/ cứ mỗi đêm/ họ lại vượt Trường Sơn/ cứ mỗi đêm đá tai mèo mọc trong ngực/ không phải ai cũng có cối xay có lúa mang ra xay/ cho toát mồ hôi giải ẩn ức/ những giấc mơ nhưng nhức/ tỉnh dậy/ không nhớ rõ cái gì/ chỉ nghe một khoảng rỗng” (tr.32).
Ai có lãng quên thì hãy lãng quên vì thời gian cứ mãi trôi đi về phía trước, “Metro” cứ lao thẳng theo hướng đã lập trình, còn nhà thơ thì cứ mỗi chặng khởi hành, mỗi thời khắc qua ga là “ký ức” vùn vụt hiện về, trôi ngược chiều con tàu lao tới để thoát hồn ra khỏi toa tàu về với quá khứ sử thi. Sự đan xen giọng điệu thơ hai chiều giữa “ngày mọi người hối hả kéo nhau về Sài Gòn ăn nhậu” với“bạn tôi một mình hớp chút ánh trăng qua kẽ lá” khiến đọc lên, lòng không khỏi bồi hồi:“11h12’ ngày 14 tháng 4 năm 2009/ chẳng ai muốn sống mãi trong rừng/ nhưng bạn tôi đã từng bị bỏ quên/ ở một góc rừng già nào đó/ ngày mọi người hối hả kéo nhau về Sài Gòn ăn nhậu/ bạn tôi một mình hớp chút ánh trăng qua kẽ lá/ anh giữ kho hàng khi tất cả đã lãng quên” (tr.33).
Với phong cách thơ táo bạo vốn có của mình, Thanh Thảo đã dám nói thật những điều mà xưa nay nói về người lính Trường Sơn, thơ ta, đặc biệt là đối với thể loại trường ca, thường ngại nói.Cái cao cả, hào hùng phải được làm nên bởi chính cái cụ thể, bình thường là như vậy. Trường ca Việt Nam đã mở rộng phạm trù của khái niệm anh hùng khi hướng về phản ánh hiện thực cuộc sống, đúng nhưA.N. Sôkôlốp nhận định: “Phạm trù anh hùng như một dấu hiệu của trường ca cần được hiểu khá rộng, trong đó có sự vươn lên trên tầm cuộc sống bình thường và, về mặt này hay mặt khác có liên quan đến khái niệm xứng đáng được ngợi ca, tôn vinh”(6).
3. Một ngôn ngữ thơ xen tuyến ngược xuôi
Tất cả những tiêu đề (trừ phần mở đầu không đặt tên) của 20 tiết đoạn (ga chính) đều là “ngôn ngữ lập trình” mang yếu tố và hàm ngôn “điện tín” của hơi hướng hậu hiện đại: “21 giờ 11 tháng 4 năm 2009”/ “9h31’ ngày 13 tháng 4 năm 2009”/ “11 phút sau”/ “10h16’ cùng ngày”/ “ga ni ga mô ri?”/ “15h44’ cùng ngày”/ “chúng ta đa qua ga…”/ “mười sáu giờ mười ba phút”/ “10h25’ ngày 14 tháng 4 năm 2009”/ “8 phút”/ “11h04’ cùng ngày”/ “11h23’ cùng ngày”/ “1 phút sau”/ “15h23’ cùng ngày”/ “10h55’ ngày 15 tháng 4 năm 2009”/ “15 phút sau”/ “11h12’ ngày 16 tháng 4 năm 2009”/ “15h39’ cùng ngày”/ “16h09’ cùng ngày”/ “26 phút sau”. Một hành trình hun hút 38 năm (1971- 2009) chỉ gói trọn trong thời gian hành trình 6 ngày của “Metro” (từ “21 giờ 11 tháng 4 năm 2009” đến “16h35’ ngày 16 tháng 4 năm 2009”. Vẻn vẹn là 6 ngày, từ “21 giờ 11 tháng 4 năm 2009” đến lúc “Metro” dừng lại (cũng là dòng thơ cuối của nhà thơ dừng lại trên máy tính) là 16 h50’ ngày 16 tháng 4 năm 2009! Sao lại 6 ngày? Tôi cứ liên tưởng, từ trong vô thức, Thanh Thảo đã tạo lập “dự án metro siêu tốc” này theo cách của Đức Chúa Trời tạo lập nên vũ trụ. Đó chính là 6 ngày (từ thứ Hai đến thứ Bảy), theo giáo lý Thiên Chúa thì ngày Chúa nhật là ngày nghỉ ngơi để con cháu ngài tưởng nghĩ về ngài. Phải chăng chính cái ngày tưởng nghĩ sau khi đã nhọc nhằn tạo dựng vũ trụ nhân gian của Chúa Trời là cái ngày dành cho lòng người “hỉ, nộ, ái, ố, bi, hoài, lạc”? “Nhàn cư vi bất thiện” mà! Vậy là hồn thi nhân mặc sức tuôn đi bất kể thời gian, bất kể giờ tàu. Và vì vậy, “Metro” 6 ngày của Chúa lướt đi tới nhanh quá, thời gian trữ tình của hướng đi con tàu tốc hành (eo hẹp, cô đặc) quá mà thời gian ngược hướng con tàu (thời gian quá khứ) lại mở rộng đến mênh mông (ít nhất cũng là 38 đến 40 năm). Phải chăng cái thời gian của ngày Chúa nghỉ ngơi để con cháu tưởng nghĩ ấy, tác giả đã dành trọn cho “Phần mở đầu” để “dọn mình” chuẩn bị cuộc hành hương?
Ngôn ngữ đời thường của cuộc sống hiện đại đã “leo lên” Metro để cùng tác giả làm cuộc hành trình đan xen giữa hai chiều xuôi ngược trên cùng một đường ray cao tốc:“nếu tôi nói những cô gái ngày ấy đẹp hơn những cô gái 8X 9X chân dài/ nhiều người sẽ không tin tôi”. Nhưng làm sao không tin được vì giữa đạn bom Trường Sơn thời ấy, chết sống là phút là giây, chỉ một bóng hồng hiện ra, vẫy vẫy đôi tay, nở nụ cười chàotrên tuyến đường người lính hành quân đã là một nguồn động viên lớn lao cho hàng vạn chàng trai trẻ lao vào trận mạc, dù ai cũng biết những bóng hồng kia không phải là những người mẫu thời trang mà chỉ là những bóng hồng đang “leo dốc”, “mang ba lô nặng” và đang “gùi cõng gạo” ra chiến trường: “những cô gái ngày ấy thường chân ngắn/ có lẽ họ leo dốc nhiều quá/ mang ba lô lâu quá/ gùi cõng gạo nặng quá” (tr.11). Những “8X 9X’, những “chân dài - chân ngắn” kia chính là kiểu ngôn ngữ đối sánh giúp người đọc hôm nay cảm nhận được cái hào hùng một thời thông qua cách nói trần trụi đời thường của trường ca thời kinh tế thị trường đang phát triển này.Cả những “tạp nhạp”, “nhảm nhí” khi nói về “ước ao”, về “giấc mơ” cũng ngồi chung trên toa metro nhớ về một thời trận mạc: “những chớp sáng lằng nhằng những ước ao tạp nhạp/ những giấc mơ còn nhảm nhí hơn”. Không phải loại ngôn ngữ này xuất hiện chỉ vì nhà thơ đang ngồi trên một phương tiện giao thông quá hiện đại màchính xác hơn, đúng bản chất hơn là bởi những câu thơ đang được người lính Trường Sơn viết “run run” trong chính cơn mê sảng của những trận “sốt rét” rừng: “những con chữ run run xiêu vẹo/ như bước chân anh lính sốt rét” (tr.13). Chia tay nhau để ra trận tuyến, để vào Nam làm cuộc trường chinh vĩ đại nhất của một thời đại hào hùng, nhưng với Thanh Thảo, đây là cuộc chia tay hoàn toàn không có gì “nghiêm trọng” đến mức phải hô hào, mệnh lệnh. Và vì vậy, ngôn ngữ “bia hơi” vỉa hè theo hơi bia cứ thản nhiên bước vào trường ca làm nên một thứ ngôn ngữ chia tay hợp không khí, thi vị mà rất đỗi ân tình: “Trường Sơn đâu phải quán bia hơi/ nhưng bạn bè ơi còn được phút nào bên nhau vui phút ấy/ 5 vại bia 3 hào cho 2000 cây số/ cũng bỏ bèn!/ nhớ Đồng nhớ Mai nhớ Cao quán bia hơi Đường Thành/ nhớ bạn hiền Lê Điệp” (tr.15). Ngôn ngữ “nhà tàu” vừa nhắc nhở nhẹ nhàng làm “vui lòng Thượng đế” rất hợp với cung cách phục vụ khách ngày nay trên những phương tiện giao thông “chất lượng cao”, nhưng đồng thời cũng không kém phần nghiêm nghị theo đúng “Quy chế của Metro”:“hết sức kiềm chế! Tôi không nghĩ anh sẽ nhảy tàu/ để gặp mối tình cách đây 40 năm/ vả, có muốn nhảy cũng không được/ cửa metro đóng mở tự động/ anh chỉ được quyền yêu những ga chính” (tr.17). Đành rồi, cửa metro đã lập trình lấy đâu chỗ để hành khách xuống ga xép. Nhưng chẳng lẽ lại im lặng trước một vùng kỷ niệm thiêng liêng. Không nhảy tàu, nhưng hành khách có quyền được nói: “Nhưng tôi từng yêu ở cái ga nhỏ bé này/ cho tôi xuống!”. Và tâm tưởng nhà thơ đã vuột khỏi toa tàu đang lao vút về phía trước để lui về quá khứ, đắm mình trong quá vãng đẹp của tình yêu.
Tiết đoạn này (như một chương của trường ca) khá ngắn: “mười sáu giờ mười ba phút/ nhưng hạnh phúc là gì?/ câu hỏi này của chị Dương Thị Xuân Quí/ người hỏi không thể tự trả lời/ vì chuông đã rung/ hết giờ!” (tr.24). Nhưng tác giả cũng đã phối hợp một cách nhuần nhuyễn đến tuyệt vời giữa ngôn ngữ trang nghiêm của chiến tranh và ngôn ngữ hiện đại “rất Game show”. Chỉ mấy câu thơ mà Thanh Thảo đã gợi người đọc nhớ đến cả một thời chiến tranh với bao trăn trở của những con người trong cuộc chiến. Gợi cả bài thơ “Hạnh phúc” của Dương Hương Ly viết khi người vợ Dương Thị Xuân Quí hy sinh: “Hạnh phúc là gì đã bao lần ta lúng túng/ Hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra/ Cho đến ngày em cất bước đi xa/ Miền Nam gọi hai chúng mình có mặt”. Cái câu hỏi mà “người hỏi không thể tự trả lời” do chị đã hy sinh quá sớm hay là do “tiếng chuông rung báo hiệu hết giờ” của các trò chơi truyền hình “Đi tìm triệu phú”, “Đấu trường 100”, “Rung chuông vàng”… thời hiện đại!
Đang ngồi “xem ti - vi quảng cáo ra rả” đủ các loại “thần dược cứu người”, Thanh Thảo lại nhớ về người đồng đội -một dược sĩ- đã hy sinh. Người chết thì đã chết mà món nợ của nhà thơ đối với thân nhân người đồng đội đến bây giờ vẫn ray rứt mãi không yên:“cha mẹ Tính ở đâu mình không biết/ một dược sĩ cao cấp/ đã không thể tự cứu mình/ trước khi thần dược ra tay/ đủ loại thuốc quảng cáo ra rả trên ti-vi suốt đêm suốt ngày/ có cứu được bạn tôi qua cơn sốt rét/ 38 năm trước?” (tr.28). Ngôn ngữ hiện đại, trần trụi, kể cả “ngôn ngữ quảng cáo” thời nay dẫn người đọc cảm nhận chiều sâu của quá khứ sử thi một cách thấm thía hơn và cảm thấy nhức nhối lòng hơn. Ngôn ngữ đời thường, thậm chí là trần tục kia, không hiểu sao, đặt vào đoạn thơ này, tôi cứ liên tưởng đến những dòng “Nhắn tìm đồng đội” cũng hàng ngày vang lên không dứt cho dù chiến tranh đã lùi xa đến gần 40 năm.
Bốn câu kết thúc trường ca lại là một trường đoạn vui chứ không nghiêm trọng hô hào để thể hiện tính sử thi như ta tưởng tượng: “26 phút sau/nhớ tiếng một loài chim kêu trăng/ lộ đá nhỏ rừng cây thưa in thẫm bóng/ mình và thằng Hùng Nam chạy bộ đi mua rượu/ “tiệc cu xanh” mở bên sông Vàm Cỏ/ mười mấy thằng lính uống hai mươi lít rượu/ quắc cần câu”(tr.39). Cái ngôn ngữtếu táo “quắc cần câu” của người lính trong chiến tranh những giây phút bình yên hiếm hoi khiến Metro đã dừng ở ga cuối rồi mà âm vang Trường Sơn vẫn lan tỏa mênh mông qua những cánh rừng, hai bờ sông, dội “âm âm” vào vách núi cái thỏa chí của người lính Trường Sơn trai trẻ trong một cuộc tiệc rượu vui: “âm âm/ những cánh rừng hai bờ sông đáp trả/ “quá đã! quá đã!”/ trong chiến tranh cũng có nhiều lúc vui” (tr.39). Cái thi vị, nhẹ nhàng đầy lạc quan của một thời chinh chiến vẫn vọng âm mãi trong lòng mọi người bởi những ngôn từ rất đỗi bình dân: “quắc cần câu”,“quá đã! quá đã!”…
“Metro” thật sự đã “đập vỡ đại tự sự” sử thi một thời của trường ca sang những phân khúc “tiểu tự sự” để mọi người được ngắm nhìn chất sử thi của trường ca hôm nay một cách cụ thể và rõ ràng hơn. “Tiểu tự sự” trong một chỉnh thể trường ca với một ngôn ngữ, một giọng điệu thơ phù hợp hoàn toàn với một chuyến hành trình (cấu trúc) của một sử thi về một “quá khứ trọn vẹn” trong tiếng nói, tiếng vọng của âm thanh hồi còi tàu được lập trình vang lên trong từng chương đoạn đi, dừng của một chuyến tàu thời gian - dòng sử thi mang tính thời gian… chính là cái mới của “Metro” và là một thành công nữa của Thanh Thảo trong sự cách tân cấu trúc thể loại trường ca.
Không ai được lãng quên quá khứ. Đó là lời cảnh báo thiêng liêng, là mệnh lệnh vang lên từ tâm can mọi người dân Việt cho dù các đô thị hiện đại khắp đất nước đang mở rộng ra, đang cao tầng lên; các tuyến đường cao tốc đang thi nhau trải dài nối liền mạch nước non, các dự án siêu tốc đang định hình… Vì với nhà thơ, cuộc sống có hiện đại đến mức nào, dẫu có lập trình chính xác đến từng phút từng giây và cửa đóng mở tự động như “Metro” cũng không giam nỗi tâm hồn của những con người quay về với sử thi một thời bi thương, hào hùng của dân tộc. Chở quá khứ sử thi bằng một phương tiện hiện đại kiểu “Metro”, Thanh Thảo đã có cách chở riêng cho trường ca của mình…
Quảng Ngãi, chiều rướm mưa, 04/12/2010.
--------------------
Chú thích:
(1)- “Chàng thi sĩ viết trường ca”, tên bài viết của Phạm Ngọc Cảnh Nam, Gói nhân tình, Nxb văn học, 2004
(2)- Xem thêm “Metro đã khởi hành…” của Bùi Việt Phương
(3)- Tiếng bom và tiếng chuông chùa - Trường ca Phạm Tiến Duật
(4) - Khối vuông ru-bích, Thanh Thảo, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, 1985
(5) - M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường Viết văn Nguyễn Du, 1992
(6) - А . Н . Соколов, Очеркипоисмориирусскойпоэмы 18ипервойполовины 19 века, издательствомосковскогоуниверситета, 1955.
(*) Thơ trích trong bài là từ trường ca Metro của Thanh Thảo, Nxb Hội Nhà văn, 2009
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.