TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
THANH THẢO - NGƯỜI NHẬP THẾ
THANH THẢO - NGƯỜI NHẬP THẾ
XUÂN BA
Mỗi bận ghé Quảng Ngãi, hễ hở được một tí là tôi tranh thủ ới Thanh Thảo.
Nhà thơ Thanh Thảo bây giờ đã quần cư hẳn ở đất Quảng Ngãi. Mỗi bận có dịp thập thững theo ông (một bên chân Thanh Thảo có cố tật) không hiểu sao câu nói của Gamzatov cứ ập về trí nhớ, đại khái khi tài năng đến cư trú ở một người thì nó không cần tìm hiểu xem anh ta thuộc dân tộc lớn hay bé, anh ta ở thành phố đông hay ít người! Tài năng là tài năng, thế thôi! Tài thơ của Thanh Thảo đến cỡ nào thiên hạ đều tường cả, nhưng tôi thì lại gờm ông ở cái tính ngang thẳng mà bây giờ người ta vẫn gọi là tiết tháo ấy. Tiết tháo thì thời nào cũng vẫn là của hiếm? Tiết tháo là cách nói khác đi của giống trực ngôn ngang thẳng. Một lần ở Hà thành, dẫn một ông thi sĩ cũng có tiếng lần ấy ra mắt Thanh Thảo. Không biết hai người chuyện trò thơ phú những gì, như người ta buổi đầu sơ kiến thì hay lấy cái hòa làm trọng chứ ăn đời ở kiếp chi với nhau! Nhưng Thanh Thảo không vằn mắt mà cũng chẳng nóng mặt, chất giọng bình thản buông ra câu này: Thơ ông ra cái... gì!
Nhà thơ Thanh Thảo. Ảnh: Xuân Ba.
Buông ra như thế là chan tương đổ mẻ vào nhau rồi còn gì! Thực khó chịu với tính khí Thanh Thảo. Nhưng biết làm sao! Cánh viết lách cùng bạn bè anh em đã quá quen với một Thanh Thảo không bá vai bá cổ với nhạt cùng thớ lợ màu mè.
Kể ra ngồi với cái giống thi sĩ ngang thẳng này chẳng phải là hoàn toàn dễ chịu! Nhưng gần ông lắm lúc bừng ra nhiều điều hay ho về nghề lẫn chữ. Nghề là nghề báo. Ông tường nhiều chuyện và có kiểu soi, cách nhìn của riêng mình chứ không à uôm té nước theo thiên hạ. Lão này ít khi lê thê mà có lối sắc lẻm chết người. Mà lão từng chưng "dao với kéo" cùng những sắc lẻm ở mục "Chào buổi sáng" bắt mắt khách trên tờ Thanh Niên.
Chưa phải là lúc nói gở kiểu cái quan định luận. Bởi Thanh Thảo còn khỏe mạnh sung sức chán với cái tuổi thất thập, nhưng cũng xin phép chưng ra công trạng thơ của Thanh Thảo từng được thẩm định tôn vinh. Đó là những tập thơ và trường ca mang diện mạo độc đáo viết về chiến tranh và thời hậu chiến: Những người đi tới biển (1977), Dấu chân qua trảng cỏ (1978), Những ngọn sóng mặt trời (1981), Khối vuông ru-bích (1985), Từ một đến một trăm (1988)...
Hiện ông là Chủ tịch Hội Văn học-Nghệ thuật Quảng Ngãi, Phó chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam. Thanh Thảo từng nhận giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1979; giải thưởng Ban Văn học Quốc phòng-An ninh, Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995; giải thưởng Nhà nước (đợt 1) về văn học-nghệ thuật năm 2001.
Chứng kiến những quyết liệt ngang thẳng của Thanh Thảo, lúc đầu coi đó là hiển nhiên tất yếu của di duệ tính cách Quảng? Nhưng sau đó lại ngờ ngợ, phải là người sốt mến với thời cuộc, cộng với tính cách cố hữu của mình thì Thanh Thảo mới có kiểu ứng xử thẳng băng như thế? Đành một nhẽ, cung cách ấy nếu không muốn nói là chưa khôn, chưa khéo trong thói thường thiên hạ nhưng đích là một kiểu, một phong cách của việc dấn thân, nhập thế chăng?
Nghe nói tốt nghiệp Khoa Văn Đại học Tổng hợp, anh sinh viên Hồ Thành Công, tên khai sinh của Thanh Thảo, có những tiêu chuẩn và sự thế chấp đâu đó để không phải vào chiến trường. Nhưng Thanh Thảo đã xung phong đi. “… Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ (Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc? (trích Trường ca Những người đi tới biển).
Thanh Thảo đã bộc bạch: "Tôi không nghĩ 5 năm lang thang ở chiến trường, lang thang qua chiến tranh của mình là hoàn toàn suôn sẻ. Nhưng thực lòng tôi khải ngộ ơn trên, và cảm ơn số phận đã giúp cho cuộc lang thang nhiều năm của mình thành tựu. Tôi đã có cơ hội nhìn rõ khuôn mặt chiến tranh, đã đi được khá nhiều đường rừng đường đất và đường nước, đã từng nhịn đói 3 ngày do tắc đường ở Đồng Tháp Mười, đã núp trong bụi cây ở một trảng cỏ thuộc đất Cam-pu-chia và nhìn rất rõ một gã lính Mỹ cởi trần, ngực đỏ như ức gà chọi, đứng bên cửa trực thăng và rà khẩu đại liên, cứ như gã đã phát hiện thấy cái gì…" (trích Hồi ký Thanh Thảo).
Người lính thơ Thanh Thảo trong chiến trường ác liệt dường như không xung phong như những chiến binh Quân Giải phóng: "Vui gì hơn làm người lính đi đầu/ Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa", mà ông đã nhập vào thế trận chiến tranh bằng những cảm nhận của người lính thi sĩ. Vậy nên lát cắt dẫu bất kỳ thời nào vào giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, người ta cũng đều tìm thấy một tiêu bản Thanh Thảo cùng với Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh… đã góp phần tạo nên và hoàn thiện gương mặt của thế hệ thơ trẻ thời chống Mỹ và sau đại thắng mùa Xuân 1975.
Nhận xét về thơ Thanh Thảo có nhiều nhà phê bình gạo cội. Nhưng có một nhận xét hơi bị ấn tượng của Nguyễn Thị Ngọc Trâm, người làm luận văn thạc sĩ về thơ Thanh Thảo.
“Thơ hay là chết”? “Chết” trong tâm hồn hay “sống” để được chết cho thơ? Đối với Thanh Thảo, không có một sự lựa chọn nào khác. Nếu Federico Garcia Lorca từng nói: “Khi tôi chết, hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta”, thì người ngưỡng mộ ông-nhà thơ Thanh Thảo-cũng sẵn sàng “tử vì đạo”, hiến dâng cuộc đời một cách vô điều kiện cho cuộc hành trình theo đuổi những ám ảnh day dứt về nghệ thuật thi ca.
Đổi mới và dấn thân, đó là con đường duy nhất cho các nghệ sĩ chân chính, cho dù đó là con đường chông gai và đơn độc. Đổi mới trong sáng tác nghệ thuật nói chung đã khó, đổi mới trong thơ lại càng khó hơn. “Thơ vẫn là cái gì mờ mờ ảo ảo, vẫn là cái gì ta vừa bắt được đó lại tuột đâu mất. Thơ vẫn là hình bóng, đôi khi là bóng của bóng nữa”-Thanh Thảo. Và dù có tới được hay không, thì Thanh Thảo vẫn luôn chọn cho mình vị trí tiên phong với tinh thần táo bạo của một bản lĩnh dám dấn thân. “Số phận của một nhà thơ cách tân là luôn phải ở vạch xuất phát. Và luôn phải biết quên”-Thanh Thảo. Bắt đầu với Dấu chân qua trảng cỏ, Những người đi tới biển và Những ngọn sóng mặt trời… Thanh Thảo đã trở thành một tiếng thơ mới mẻ, ấn tượng trong thơ ca cách mạng Việt Nam.
Trong nhịp dấn thân viết lách hết mình với thi ca ấy, nhà thơ Thanh Thảo đã may mắn gặp những người đồng điệu. Đó là nhà thơ Chế Lan Viên đã dám in cho Thanh Thảo những bài thơ lạ từ trong chiến trường gửi ra. Chính vì cái lạ này mà Thanh Thảo, đâu như sau 1975 đã bị "ném đá", bị "xua" khỏi "ngôi đền" thi ca Việt. Thanh Thảo phải lang thang một thời gian dài ở TP Hồ Chí Minh. May có cuộc tao ngộ với tác giả Bức thư làng Mực Nguyễn Chí Trung. Nhờ đó Thanh Thảo được về Trại sáng tác Quân khu 5. Thời gian tá túc yên ổn này giúp Thanh Thảo tĩnh tâm, chắp thêm nối dài đam mê thơ phú với trường ca. Một số trường ca được hoàn thành trong giai đoạn này trong đó có Những người đi tới biển.
Nhà thơ Thanh Thảo không xoa tay rung đùi làm kẻ tận hưởng những tung hô về thơ thời chiến của mình. Thời hậu chiến, tạm gọi thế, Thanh Thảo lại tiếp tục dấn thân nhập thế bằng cái mạch đổi mới thơ. Và cái giá phải trả cho đổi mới thật đắt. Song ông có đủ niềm tin vào con đường mình đã chọn, vì như nhạc sĩ tài hoa Văn Cao đã nói: “Người ta yêu những người cố mở đường mà thất bại, yêu những người biết thất bại mà dám mở đường. Bởi vì những người đó đã nghĩ đến sự tiến bộ của nghệ thuật”.
Làm nghề, yêu nghề, trọng nghề, khát vọng với nghề và dám hy sinh vì nghề, Thanh Thảo đã tự nguyện dấn thân, tự nguyện đốt cháy mình để “sống” và “chết” cho thơ. Nếu không có những người khao khát được xuyên phá, sẵn sàng là "cảm tử quân" vì nghệ thuật, làm sao chúng ta có thể tiến lên?
Năm 2009, Thanh Thảo cho ra mắt trường ca thứ chín của mình: “Metro”, và trở thành nhà thơ viết nhiều trường ca nhất trong thơ ca hiện đại Việt Nam.
Chợt nhớ có một môn phái yêu thơ Thanh Thảo, trân trọng trường ca ông đã gọi Thanh Thảo là ông hoàng thơ ca.
Thay vì nói cụm từ dấn thân, tôi mạo muội kêu bằng Thanh Thảo, người nhập thế.
Những người đi tới biển
(trích)
Khúc 5
Một mai... một mai... câu hát đi qua ngoắt ngoéo những đường rừng
Chỉ thấy trước chừng mươi thước
Mùi lá mục dịu dàng mùi hoa gay gắt
Mùi trống không những hố bom
Người ta không thể chọn để được sinh ra
Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy
Gió ào ào trên đầu lá thầm vỡ dưới chân
Câu chuyện mười phút nghỉ trùm lên đất nước
Dòng sông, bữa cơm canh chua mắm tép dưa cà
Mái nhà mẹ cơn dông mùa lũ
Chúng ta không thể nào sống nô lệ
Không cho phép tên giặc nào đạp trên đất phù sa
Đồng bằng ơi bầu trời mùi vỏ chanh
Ai chẳng muốn một lần
Đi tràn trề bình yên dưới nắng
Cho gió mát lùa tận cùng chân tóc
Lòng bâng quơ câu hát cũng bâng quơ
Chúng tôi uống nước suối ăn lương khô
Miếng đường nhỏ cắt giữa mùa xuân
Ve đột ngột đồng ca lúc sáu giờ chiều
Lệnh hành quân từ khoảng rừng mắc võng
Những gương mặt đong đầy mưa nắng
Gió Lào suối lũ Trường Sơn
Để san sẻ cho nhau những lo nghĩ tâm tình
Những kỷ niệm chẳng có gì rực rỡ.
Bạn thương mến
Một mai... một mai... trái tim bạn giờ ở non cao
Trong một lớp rễ sù sì hàng săng lẻ
Dù quên dù nhớ
Gương mặt vụt về một chớp xanh
Đêm cơn sốt B.52 rừng nghiêng ngả
Chúng mình nằm bên nhau
Nghe tầng cây rào rào như mưa xuống
Bàn tay nắm bàn tay nóng bỏng...
Tôi không muốn tôi tin trái tim ấy hóa ngọc
Trái tim thường sau lồng ngực đẫm mồ hôi
Đập giữa rễ cây và chồi cây
Như ngọn đèn ban đêm con mắt ban ngày
Nơi vầng trán của anh ba lô của tôi
Trong bếp lửa và chén canh môn thục
Vẫn cái dáng thằng con trai chịu thương chịu khó
"Con trai giống mẹ"... từ nết ở nết ăn
Lẳng lặng yêu
Chưa lúc nào nói hết
Nhưng làm sao nói hết mọi điều.
Không yên nghỉ
Ngày dân tộc tụ về đường số Một
Lòng không nguôi thương những cánh rừng này
Nơi những đứa con nằm lưng đèo cuối dốc
Dọc theo lối mòn chìm khuất dưới tầng cây
Nếu một ngày ta dựng những hàng bia
Xin hãy để "nơi đây những cuộc đời chưa bao giờ yên nghỉ"
Và trận gió xoáy trên nóc rừng
Như buổi sớm mùa khô năm ấy
Trùng điệp áo màu xanh là tiếng trả lời
Của nhân dân mẹ ơi!
Của nhân dân muôn đời không yên nghỉ.
Đó là khoảng trời trong trẻo nhất
Sung sướng thay những rừng già mùa xuân thay lá
Cây cổ thụ rồi còn sống lại mỗi chồi cây
Những người yêu nhau sẽ nói thế nào
Sẽ lặng im ra sao
Và họ đi qua buổi sáng
Năm nay tôi ba mươi tuổi
Buổi sáng ấy tôi bước vào tuổi 25
Ở đường dây 559 - trạm 73
Ngày sinh nhật bắt đầu bằng cơn sốt
Cổ đắng khô ngồi thở trên đỉnh dốc
Bạn mở bi đông nhường hớp nước cuối cùng
Hớp nước cuối cùng giữa cơn sốt đầu tiên
Ngày sinh nhật ở tuổi 25 mình được uống
Mình uống mắt bạn mình mát đẫm
Khi nắng trưa dội lửa xuống đầu
Những người yêu nhau sẽ nói thế nào
Sẽ im lặng ra sao
Chúng tôi đi qua buổi trưa ấy
Với bi đông cạn khô
Và hớp nước cuối cùng chảy dịu dàng trong ngực
Đó là khoảng trời trong trẻo nhất
Tôi được uống ngày bắt đầu tuổi 25.
Khúc 6
Nhà tôi rừng xúm xít quanh
Không ngăn vách cửa cây thành yêu thân
Chỉ cần quá một bước chân
Là tôi ngập giữa rì rầm tiếng cây
Chỉ cần thêm một với tay
Là rừng ăn ở đêm ngày cùng tôi
Những khi mưa giăng kín trời
Hạt nghiêng thấm võng hạt rơi ướt cành
Nhà ai cũng thể nhà mình
Đêm đốt lửa thấy xum quanh bạn bè
Chuyện vui đến nỗi rừng mê
Xích gần đống lửa cây xòe tay hơ
Nhà không ngăn vách thân sơ
Tôi mơ tiếp những cơn mơ của rừng
Tôi mang bóng lá trên lưng
Tôi đi xuyên dưới tầng tầng cây che
Từ trong lòng đất tôi nghe
Sau bom rách xé tiếng ve lại đầy
Bàn tay cầm khẩu súng này
Ấm như cầm một mầm cây nhựa bừng.
Khúc 7
Chúng tôi không mệt đâu
Nhưng cỏ sắc mà ấm quá!
Tuổi hai mươi thằng em tôi sững sờ một cánh chim mảnh như nét vẽ
Nhiều đổi thay như một thoáng mây
Khi chúng tôi nằm nó vẫn ngồi nguyên đó
Ngậm im lìm một cọng cỏ may...
Những dấu chân lùi lại phía sau
Dấu chân in trên đời chúng tôi những tháng năm trẻ nhất
Mười tám hai mươi sắc như cỏ
Dày như cỏ
Yếu mềm và mãnh liệt như cỏ
Cơn gió lạ một chiều không rõ rệt
Hoa chuẩn bị âm thầm trong đất
Nơi đó nhất định mùa xuân sẽ bùng lên
Hơn một điều bất chợt
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.