• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Diễn đàn lý luận
 
THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM BÙNG NỔ TRONG LẶNG LẼ

THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM BÙNG NỔ TRONG LẶNG LẼ



Thanh Thảo

 

Thơ miền Trung có thể dữ dội, nồng nàn như thơ Thu Bồn, có thể tỉnh táo mà day dứt như thơ ý Nhi, lung linh u buồn như thơ Đinh Thị Như Thúy, hồn nhiên đằm thắm như thơ Mỹ Dạ…Và cũng có thể điềm tĩnh để bùng nổ trong lặng lẽ như thơ Nguyễn Khoa Điềm.

 

 


 

 

Tôi đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm từ cách đây mấy chục năm, cũng đã có vài ba lần viết về thơ Nguyễn Khoa Điềm, dẫu không dám nói là đã hiểu hết thơ anh. Tôi cũng đã quen biết rồi quen thân với Nguyễn Khoa Điềm từ hơn hai chục năm nay, nhưng không dám nói là đã hiểu hết anh. Nguyễn Khoa Điềm là người kín đáo. Tôi nhớ có lần cùng đi về Dung Quất với nữ nghệ sĩ điện ảnh Trà Giang và Nguyễn Khoa Điềm, lúc đó là Bộ trưởng văn hóa, khi chỉ riêng hai chị em, chị Trà Giang nói nhỏ với tôi: “ Mình thấy ông Điềm như chả bao giờ cười.” Tôi cũng nói nhỏ với chị Trà Giang: “ Có lẽ ông ấy chưa cười chứ không phải không cười.” Đúng thế thật, vì sau đó chỉ ít phút, chị Trà Giang đã tận mắt chứng kiến anh Nguyễn Khoa Điềm…cười. Hình như sau khi tôi nói một câu gì đó. Mà hầu hết những câu kiểu đó của tôi đều bậy bạ, chả đâu vào đâu.

 

Mỗi lần có dịp chọn thơ cho một “show” trình diễn, tôi thường thích chọn bài thơ “ Chiều Hương giang” của Nguyễn Khoa Điềm. Tôi yêu bài thơ giản dị này, và yêu nhất là cái con người, cái “nhân vật” nhà thơ trong bài thơ bình thản đánh bạn với…con bò, trong một chiều nghi ngút cô đơn:

 

  “ Nhưng chiều nay con bò gặm cỏ

     Bên dòng sông như chưa biết chiều tan

     Tôi với nó lặng im bè bạn

     Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương giang”( Chiều Hương giang)

 

Khi đọc đoạn thơ ấy, trong tôi hiện ra một nét cười lặng lẽ của tác giả, và tôi biết có những lúc trong đời, ta chỉ muốn thủ thỉ với…con bò hay con chó, và những lúc ấy, ta cảm thấy nhẹ lòng biết bao. Người ta nói thơ như Nguyễn Khoa Điềm là thơ hướng nội. Tôi không nghĩ có những nhà thơ hoàn toàn hướng nội hoặc hoàn toàn hướng ngoại. Nhà thơ nào cũng phải hướng nội mới làm được thơ, nếu không thì chỉ được những câu vần vè tuyên truyền hay quảng cáo. Và nhà thơ nào cũng phải có phần hướng ngoại khi muốn thơ mình có người đọc, có người chia sẻ. Vấn đề để phân biệt ở đây là có những nhà thơ chỉ hài lòng khi kiếm càng đông người hâm mộ càng tốt, và có những nhà thơ chỉ mong được một ít, thậm chí vài ba người chia sẻ, là đủ vui rồi. Có thể Nguyễn Khoa Điềm thuộc dạng “những nhà thơ thứ hai”, những người chỉ thích lặng. Khi ngồi trước bệnh xá cũ của chị Đặng Thùy Trâm trên một ngọn núi ở Đức Phổ giáp Ba Tơ, Nguyễn Khoa Điềm viết:

 

                       “ Chiếc hầm cũ đau như tròng mắt

                          Nhìn vào ta thăm thẳm, bơ vơ” ( Ngày về)

 

Tôi bảo đảm, trong hoàn cảnh ấy, sẽ có những nhà thơ khác viết khác. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm-một người đã quen với những căn hầm cũ ở chiến khu-lại thấy nơi cái rỗng không của một căn hầm “đau như tròng mắt” ấy hiện về cả một quá khứ chiến tranh và đôi mắt của người bạn gái cùng trường Chu Văn An đang “thăm thẳm” nhìn mình, một cái nhìn “bơ vơ”, côi cút. Như đã tới tận cùng của “cõi lặng”, và cũng không nói gì cả. Không hàm ngôn ẩn nghĩa gì cả. Chỉ đau. Và chưa chắc đã muốn chia sẻ nỗi đau ấy với ai.

 

Thơ không mang lại cho ta nhiều vinh quang lắm đâu, nhưng có thể quàng nỗi đau của người vào cho ta, và mang nỗi đau của ta tới cùng người. “Nhiều khi đá dạy ta mềm mỏng”( Hy vọng), đơn giản vì đá sống lâu hơn ta, kiên nhẫn và lặng lẽ hơn ta. Nhưng cũng cứng rắn hơn ta. Bởi phải biết cứng rắn mới học được sự mềm mỏng, và phải kiên định như đá mới cảm được hết sức mạnh của dòng nước:

                    “ Anh trôi đi cùng phù du phiêu sinh vật, những

                       tiếng chuông không ngày về

                       Những ngọn cỏ khô không nguồn gốc, những

                       người mẹ đắm đò, những câu mái nhì mất tích

                      Anh trôi đi với trận bão năm Thìn, nhịp cầu bị

                     đánh sập năm Thân

                     Những cây bèo tím” ( Sông Hương)

Khi ta nói, thơ của một tác giả thuộc về dòng thơ miền Trung, thì không chỉ vì tác giả ấy quê ở miền Trung, mà còn vì khí chất của sông núi miền Trung đã hiện lên như không thể khác trong thơ của  họ:

 

                     “ Một mùa hè trỗi những đám mây bất thường

                        Sừng sững như dãy phao cửa biển” ( Định vị)  

 

Cái cách hình thành và định dạng những đám mây ở miền Trung cũng khác, và khi nhà thơ “định vị” được không chỉ là “những cơn chóng mặt” như Rimbaud thi sĩ đã chỉ ra, mà còn định hình được những đám mây những cơn giông trên bầu trời, thì thơ họ dẫu không “hô phong hoán vũ” được như thầy phù thủy, cũng khiến người đọc rơi vào trạng thái ngất ngây trong thoáng chốc. Nguyễn Khoa Điềm, khi về quê đón Tết, “Đi vào đi ra/Ngồi bệt xuống thềm/Ngó mây bay trên vườn người khác/”, là đã tự mình rơi vào “trạng thái thơ” không kiểm soát, một trạng thái mà khi đó lý trí đứng xớ rớ chơi bên ngoài, còn vô thức thì “đi vào đi ra” ở bên trong. Và làm nên những tiết điệu rất riêng:

 

        “Mãi khi vầng trăng treo trước cửa

          Chợt nhớ khuôn mặt hiền xót xa

          Nghiêng xuống cánh đồng ngày xưa

 

          Vì sao không thể yêu mến hơn ?

          Vì sao không xanh tươi hơn ?

          Vì sao không trong sạch hơn ?” ( Trong những buổi chiều)

 

Người ta nói những dằn vặt trong thơ cũng là những dằn vặt có tiết điệu, là vậy. Nếu có âm nhạc trong thơ thì âm nhạc trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được kìm nén tối đa, có thể gọi là “âm nhạc tối thiểu”. Một số nhà thơ lớn trên thế giới đã đi theo trường phái thơ có “âm nhạc tối thiểu này”, và ở Việt Nam tôi thấy có Văn Cao, một phần Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.

 

              “ Có một nỗi buồn

                 Canh cánh

                  Sau vai anh

                 Trước một tầm với

                 Đâu đó

                Trên chiếc lá còn sống

                Trong mây, ngày sau mưa” ( Có một nỗi buồn)

 

Khi đã chọn được cho mình lối thơ tiết chế với âm nhạc tối thiểu như vậy, Nguyễn Khoa Điềm có thể khiến từng chữ trong câu thơ có được sự tự tại, như cách mà nhà thơ tự tại:

 

             “ Đứng đấy tự bao giờ, bên dòng sông cũ

                Con bò gặm cỏ

 

                Chậm rãi

                Một ít bóng đêm và ít hạt bình minh

                Từng miếng một, nhai và thở” ( Cỏ ngọt)

 

Thả lỏng hồn nhưng kiểm soát chữ và tiết nhịp của chữ, thơ Nguyễn Khoa Điềm nhiều lúc rất gần với thơ cổ điển, nhưng có lúc lại khiến ta giật mình bởi tính thời sự và đương đại của nó ẩn trong những hạt chữ kìm nén:

 

             “ Những giọt nước mắt

                Thật buồn

                Thật lặng lẽ

                Trước bức chân dung

                Người lính Điện Biên vừa tròn trăm tuổi

                Của một người tù.

                Trận chiến Lịch Sử

                Đã phá tung mọi xiềng xích ?

 

                Người họa sĩ trẻ

               Từ sau song sắt

               Vẫn bình tâm

               Dành lòng biết ơn

               Không dứt

              Cho một người lính già” ( Bức chân dung người lính già)

 

Bài thơ được kìm nén tới từng dấu chấm(.) từng dấu hỏi(?), và âm nhạc tối thiểu của nó đã giúp bài thơ bùng nổ trong tâm trí người đọc, một sự bùng nổ đi với lòng cảm phục. Đâu cần phải đại ngôn hay lắm lời, thơ mới bùng nổ!

 

Tôi nghĩ, thơ Nguyễn Khoa Điềm có thể đại diện cho thơ miền Trung ở độ kìm nén tối đa và âm nhạc tối thiểu đó, “như bãi mìn/vùi dưới đất nhiều năm/”(cái này là thơ tôi -TT)  

  

                        Quảng Ngãi        20/09/2011                              

 Nguồn: Vănnghệ                                           

 



Tin tức khác

· SỬ GIA PHÁP: CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÓ TẦM NHÌN XA VÀ NẮM BẮT THỜI CƠ LỊCH SỬ
· NHÀ THƠ PHẠM SỸ SÁU - NHỮNG NGƯỜI LÍNH BIẾT LỚN LÊN CÙNG DÂN TỘC
· MỘT GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU CỦA THƠ CA VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
· NGƯỜI NGHỆ SĨ MANG TÊN MỘT DÒNG SÔNG
· BÍ MẬT PHÍA SAU BỨC TRANH NỔI TIẾNG KHIẾN DƯ LUẬN PHẪN NỘ
· PHÁC THẢO VĂN HỌC HÀN QUỐC ĐƯƠNG ĐẠI
· LIỆT NỮ TRẦN THỊ MINH - MÁ TRƯỚC CỦA TÔI
· TRẦN VÀNG SAO - GIỌT NƯỚC TRONG LÁ SEN -Tiểu luận KHUẤT BÌNH NGUYÊN
· VỊ TƯỚNG TÌNH BÁO TRONG VỎ BỌC CỦA MỘT GIÁO SƯ LẬP DỊ
· ANH ĐỈNH! - Tiểu luận PHÙNG VĂN KHAI
· LĂNG MỘ CỦA VUA LÊ THÁI TỔ Ở ĐÂU?
· BÀI THƠ 'QUÊ NHÀ' CỦA MÃ GIANG LÂN
· NGUYỄN VĂN DÂN - NGƯỜI GIEO HẠT TINH THẦN TRONG CÕI NGÔN TỪ
· THANH THẢO - THƠ CỦA MỐI TÌNH ĐẦU - Tiểu luận NGUYỄN THỤY KHA
· THI PHÁP CỦA THƠ NGẮN TRƯỜNG HỢP MAI QUỲNH NAM
· TIẾNG VIỆT ƠI, TIẾNG VIỆT NẶNG ÂN TÌNH
· NGƯỜI VIẾT 'CHIẾU THOÁI VỊ' CHO VỊ HOÀNG ĐẾ CUỐI CÙNG CỦA TRIỀU NGUYỄN
· BỨC THƯ CÓ MỘT KHÔNG HAI GỬI NGƯỜI ĐANG SỐNG
· NHÀ THƠ NGA EVGUENI EVTUSHENKO - 'TRONG ĐỜI TÔI CHỈ UỐNG RƯỢU LÀ NHIỀU'
· 188 NGÀY ĐẦU ĐỘC LẬP VÀ QUYẾT SÁCH CỦA BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ VÕ NGUYÊN GIÁP

Tin tức mới
♦ SỬ GIA PHÁP: CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CÓ TẦM NHÌN XA VÀ NẮM BẮT THỜI CƠ LỊCH SỬ (01/09/2025)
♦ CHÙM THƠ ĐÔNG HOA - GIAM CẦM NƠI PHÙ HOA (01/09/2025)
♦ NHÀ THƠ PHẠM SỸ SÁU - NHỮNG NGƯỜI LÍNH BIẾT LỚN LÊN CÙNG DÂN TỘC (01/09/2025)
♦ MỘT GƯƠNG MẶT TIÊU BIỂU CỦA THƠ CA VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI (01/09/2025)
♦ THƯ VIỆN NHỎ TRONG LÒNG NHÀ LƯU NIỆM BÍCH KHÊ (01/09/2025)
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1736976
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 52841
Truc tuyen Trực tuyến: 4

...

...

Designed by VietNetNam