TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
TÔI VIẾT "TƯỚNG VỀ HƯU"
TÔI VIẾT "TƯỚNG VỀ HƯU"
NGUYỄN HUY THIỆP
Đổi mới với ý thức xây dựng một cơ sở mỹ học mới từ ngay trong thực tế nội tình văn học ở trong nước là điều quan trọng nhất. Đó là điều mà các thế hệ nhà văn đổi mới trong 30 năm qua đã làm được.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp
Năm 1986, “cùng tắc biến, biến tắc thông”. Ngày 15-12-1986, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố “đổi mới”. Bấy giờ tôi 36 tuổi, “tam thập nhi lập”, vừa tròn ba giáp. Hoàn cảnh đất nước bấy giờ khá thê thảm. Mẹ tôi mất ngày 12-3-1987. Sau tang mẹ, tôi ngồi viết truyệnTướng về hưu. Đám tang trong truyện y hệt đám tang mẹ tôi.
Tôi gửi bản thảo truyệnTướng về hưucho báoVăn Nghệkhoảng tháng 4-1987. Biên tập viên bấy giờ là Ngô Ngọc Bội nhận bản thảo. BáoVăn Nghệin truyện này ngày 20-6-1987 (gộp ba số 24, 25, 26 lại thành một số). Trong truyện, Ngô Ngọc Bội sửa chữ “tếu” thành chứ “láo” trong câu thoại: “Cái Vy hỏi: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải không ông?”. Cha tôi chửi: “Mẹ mày! Láo!”.
Thời gian này tôi mới ở miền núi Sơn La chuyển về Hà Nội, chỉ là một nhân viên quèn ở Công ty Sách - thiết bị trường học (Bộ Giáo dục), tôi chưa có tên tuổi gì ở trên văn đàn, chưa có tâm thế và sự cả gan để mắng câu thơ “đường ra trận mùa này đẹp lắm” của Phạm Tiến Duật là “láo” được (Phạm Tiến Duật cũng là thần tượng trong thời trẻ của thế hệ thanh niên chúng tôi).
Bản thảo truyệnTướng về hưuviết tay, sau này được Bùi Xuân Phái viết chữ sơn dầu trên bìa màu xanh, hiện lưu giữ trong bộ sưu tập của gia đình ông Phạm Văn Bổng, ở số nhà 93 Hàng Buồm, Hà Nội.
Bìa Đoàn Kết
TruyệnTướng về hưuxuất ngoại lập tức được in trên tạp chíĐoàn Kếtsố 395 tháng 10-1987 của Hội Người Việt Nam tại Pháp do Trần Hải Hạc và Bạch Thái Quốc chuyển đi, sau này được Kim Lefevre dịch và in trên tạp chíLes Temps Modernessố 512 tháng 3-1989 (tạp chí này do Jean-Paul Sartre và Simone De Beauvoir chủ trương).
CÂY VIẾT TRONG TAY THƯỢNG ĐẾ
30 năm đã qua, truyệnTướng về hưuđược một số người coi là mốc đánh dấu mở đầu cho thời đổi mới văn học ở Việt Nam. Nói như lời mẹ Teresa “tôi chỉ là một cây viết trong tay Thượng đế”, truyệnTướng về hưungoài việc “cập thời vũ” (mưa đúng lúc), hợp về thời gian lịch sử, nó đã làm được hai việc rất quan trọng, đáng gọi là “đổi mới” ở trong văn học:
Một là về hình thức: Đây là tác phẩm đặc sắc có tính chấtbạo động về ngôn ngữ(tôi dùng khái niệmbạo động về ngôn ngữđể chỉ chung cho cả một thế hệ nhà văn đổi mới cùng thời như Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Việt Hà, Lại Văn Long, Đỗ Phước Tiến, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư...) Trước đổi mới, văn học chỉ có một giọng điệu mà Nguyễn Minh Châu gọi là “văn học minh họa”.
Hai là về nội dung: Đây là tác phẩm đặc sắc đưa được “đạo” vào nội dung tác phẩm văn học. “Đạo” đây nên hiểu là con đường tự nhiên, con đường thoát hiểm, con đường sống sót, con đường hi vọng. Nó là trăm ngàn sắc thái trong cuộc sống bình thường của con người ta như sinh, lão, bệnh, tử, ái, ố, hỉ, nộ, dục, ưu, lạc...
Giống như lời trong bài hátMùa xuân đầu tiêncủa Văn Cao “ngày bình thường”, “mùa bình thường”, “khói bay trên sông, gà gáy bên sông”, “người biết thương người, người biết yêu người”... Dấu hiệu nhận biết đầu tiên của “đạo” là nụ cười, sau đó là những biểu hiện của tình yêu thương với lòng chẳng nỡ, tính nhân văn...
Lê Quý Đôn từng nói: “Văn chương có đạo thì thịnh, không như thế thì suy”. Văn học hướng về sự sống, “mang khuynh hướng lý tưởng và khuynh hướng duy tâm” (di chúc văn chương của Alfred Nobel) chứ không phải là văn chương vô thần, cổ vũ hoặc ngụy biện cho tinh thần thực dụng, bạo lực, cho chiến tranh, cho khủng bố (dù với tính chất gì đi nữa).
Trong mối tương quan với các truyện khác,Tướng về hưuchưa phải là truyện “đổi mới” triệt để. Truyện vẫn còn có sự rào đón trước sau trong câu chuyện của “người kể chuyện”. “Đổi mới” dứt khoát phải là truyệnKhông có vua, sau đó làCon gái thủy thần,Những người thợ xẻ, bộ ba truyện giả lịch sửKiếm sắc,Vàng lửa,Phẩm tiết(thực chất bộ ba truyện này là truyện bịa đặt lịch sử. Lịch sử nào cũng bịa đặt, cũng “dường như”. Alexandre Dumas nói: “Lịch sử là chỉ là cái đinh để tôi treo lên đó trí tưởng tượng của mình”. Lịch sử nào thật ra cũng được dựng lên nhằm mục đích biện hộ, giải thích cho những tư tưởng chính trị “đang là”, “đang diễn ra”, “đang thượng phong”, “đang đắc thế” mà thôi).
Bìa Les Temps Modernes
THÊM VÀI Ý KIẾN VỀ KHÁI NIỆM “ĐỔI MỚI”
Đổi mới là thay cái cũ bằng cái mới, phù hợp với hoàn cảnh mới. Tất cả đều diễn ra trong “dịch”, trong dòng chảy lịch sử. Phản ứng lại kiểu gì với nó cũng chỉ là “chạy ngược trên chiếc thuyền xuôi”, không phải là phản ứng tích cực. Điều quan trọng là hòa nhập, đồng thuận được với hoàn cảnh.
Đổi mới có nhiều cách, nhiều “cảnh giới”: Đầu tiên phải là phá vỡ cái cũ, giống như khoan cắt bêtông, giải phóng mặt bằng, rất khó chịu, thậm chí bất công và lộn xộn. Trong văn học có lẽ đó là trường hợp của Trần Mạnh Hảo, Trần Huy Quang, Nguyễn Quang Lập... và một số cây bút ký sự như Phùng Gia Lộc, Hoàng Hữu Các...
Đổi mới trên cơ sở mỹ học cũ, có cơi nới, phản tỉnh, đắp điếm thêm. Trong văn học có lẽ đó là trường hợp Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Mai Ngữ, Vũ Bão, thậm chí Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng, Hoàng Minh Tường...
Đổi mới với ý thức xây dựng một cơ sở mỹ học mới từ ngay trong thực tế nội tình văn học ở trong nước là điều quan trọng nhất. Nó hợp thời: “Tác hữu trần sa hữu/Vi không nhất thiết không” (Có thời có tự mảy may/Không thời cả thế gian này cũng không). Đó là điều mà các thế hệ nhà văn đổi mới trong 30 năm qua đã làm được. Không nên coi là sai đúng, chỉ biết rằng nó đã diễn ra, nó sống, nó tồn tại.
Văn học thật sự luôn hướng về chân - thiện - mỹ, luôn giữ gìn được bản sắc dân tộc và tìm đến sự hòa nhập trong thế giới văn minh.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.