TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
TRÚC THÔNG THAO THỨC BÊN 'BỜ SÔNG VẪN GIÓ'
TRÚC THÔNG THAO THỨC BÊN 'BỜ SÔNG VẪN GIÓ'
Nguyễn Việt Chiến
Vốn là một nhà thơ từ xưa đến giờ luôn nổi tiếng vì sự khắt khe, đòi hỏi ở chính mình cũng như những người làm thơ khác (nhất là những cây bút trẻ) một nỗ lực mới cho nền thơ đương đại của chúng ta, Trúc Thông và thơ của ông dường như không mấy khi chịu cũ, không khi nào chịu già, không bao giờ chịu dừng lại hay thôi tìm tòi, thể nghiệm.
Trúc Thông tên thật là Đào Mạnh Thông, sinh năm 1940, quê Hà Nam, tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp, sống và làm việc tại Hà Nội, đoạt nhiều giải thưởng thơ của Hội nhà văn Hà Nội và Hội nhà văn Việt Nam. Ông đã in 4 tập thơ (Chầm chậm tới mình, Marratoong, Một ngọn đèn xanh, Vừa đi vừa ở) và 2 tập lý luận phê bình. Là một nhà thơ kiệm lời, đôi lúc hơi cực đoan, Trúc Thông muốn từng con chữ phải chở được một ý tưởng, một thông tin thơ nào đó đã được mã hóa bằng cảm xúc, bằng ấn tượng như kiểu những câu thơ sau: “Nhà thơ ơi/dịu dàng ngọn gió/anh đi qua những bức tường/người ta nhìn rõ bóng anh qua/ôi áo ngực gầy/máu rỏ vài ba chữ/và người ta điên cuồng đuổi theo/tận thẳm cùng bóng tối/xa, xa mãi/trăng trắng mười lăm dòng...”.
Trong mỗi bài thơ của mình, Trúc Thông đều cố gắng đưa vào một nét kiến trúc mới, hoặc một phát hiện mới, hoặc một ý tưởng mới... khiến chúng ta đôi khi phải kiểm tra lại các giác độ “thưởng ngoạn” thơ hiện đại của chính mình. Bởi dường như ở dưới tầng ngôn ngữ, câu chữ hạn hẹp ấy có một dòng chảy đời sống đang nhắc nhở chúng ta về những lo âu, trăn trở trong đời sống con người hôm nay. Diện mạo đời sống hằng ngày cứ đi vào thơ ông một cách tự nhiên như nó vốn tồn tại, không cần vẽ vời bằng một thứ cảm xúc khác. Và phải chăng, khi tìm tòi - cách tân đến tận cùng thì thơ đương đại lại trở về với sự giản dị, hàm súc vốn là một trong những giá trị muôn đời của thi ca.
Năm nay nhà thơ Trúc Thông 70 tuổi, sau thời gian lâm bệnh tai biến mạch máu não cách đây 2 năm, ông trở nên già yếu, chậm chạp, chân tay run rẩy và nói năng rất khó khăn. Gia đình ông chuyển nhà từ phố Hồng Phúc xuống một con hẻm nằm sâu trong xóm bãi An Dương ngoài đê sông Hồng. Trúc Thông có một người vợ tận tụy, suốt đời lo lắng, chăm sóc cho chồng con nhất là giai đoạn ông đang bệnh hiểm nghèo. Hôm tôi xuống chơi nhà, ông nhìn tôi mỉm cười lặng lẽ, gương mặt mệt mỏi, nhưng mắt vẫn ánh lên tia nhìn của một hồn thơ khỏe khoắn không chịu đầu hàng tuổi già và bệnh tật. Tôi bất giác nhớ tới bài thơ lục bát “Bờ sông vẫn gió” viết tặng mẹ nổi tiếng của ông: “Lá ngô lay ở bờ sông/Bờ sông vẫn gió người không thấy về/Xin người hãy trở về quê/Một lần cuối... một lần về cuối thôi/Về thương lại bến sông trôi/Về buồn lại đã một thời tóc xanh/Lệ xin giọt cuối để dành/Trên phần mộ mẹ vương hình bóng cha/Cây cau cũ, giại hiên nhà/Còn nghe gió thoảng sông xa một lần/Con xin ngắn lại đường gần/Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi”.
Bài thơ trên của Trúc Thông được giới phê bình văn học coi là một trong những bài thơ hay nhất viết về mẹ trong thi ca Việt Nam hiện đại. Vậy là bài thơ được đánh giá là thành công nhất của Trúc Thông lại là một bài thơ viết theo thể lục bát truyền thống chứ không phải hàng trăm bài thơ viết theo lối tự do, cách tân của ông. Giờ thì nhà của Trúc Thông nằm cách sông Hồng có dăm chục mét, gió sông lồng lộng suốt đêm ngày. Tiếng sông chảy thao thức và gió thổi suốt đêm hình như làm ông mất ngủ nên Trúc Thông thường phải ngủ bù vào ban ngày. Sau một thời gian trọng bệnh, giờ Trúc Thông đã nhúc nhắc đi lại được. Có hôm, ông lang thang ngao du bát ngát cả nửa ngày trời trong những ngõ ngách của vùng bãi sông mới tìm thấy lối về nhà. Vợ con ông hốt hoảng, táo tác đi tìm. Ông như đứa trẻ con cần sự quan tâm chăm sóc đặc biệt của người thân. Nhưng bà Trúc Thông cho biết, ông vẫn đang lặng lẽ, cặm cụi viết thơ. Đêm đêm thơ ông vẫn thao thức trên bờ sông vẫn gió, trên miền liên tưởng vằng vặc trăng sao của một hồn thơ đầy cô đơn và mẫn cảm.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.