TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
50 NĂM VĂN HỌC VIỆT NAM (1975 - 2025) - CHỜ MỘT CUỘC CHUYỂN GIAO THẾ HỆ -Tiểu luận PHONG LÊ
50 NĂM VĂN HỌC VIỆT NAM (1975 - 2025) - CHỜ MỘT CUỘC CHUYỂN GIAO THẾ HỆ -Tiểu luận PHONG LÊ
NGUỒN: Vanvn- Cập nhật ngày: 7 Tháng 10, 2025 lúc 14:38
GS Phong Lê trình bày tham luận tại hội thảo “Văn học Việt Nam sau năm 1975 thành tựu, vấn đề và triển vọng” ngày 6.10.2025 ở Hà Nội.
Lực lượng chủ công trong đội ngũ viết hôm nay, theo tôi nghĩ và mong đợi, đó phải là thế hệ viết sinh ra trước sau thời điểm 1990. Sớm hơn một ít, đó là năm 1986 – năm khởi động công cuộc Đổi mới. Muộn hơn một chút, đó là năm 1995 – năm Việt Nam thoát khỏi thế cấm vận và gia nhập ASEAN.
Có thể tìm thấy khát vọng đi tìm cái riêng là ráo riết nhất ở lớp người này. Lớp người đến nay nhìn chung ở vào tuổi ngoài 20 cho đến trên 30 dưới 40, là lứa tuổi có tiềm năng và hoàn cảnh tốt nhất cho việc thực hiện các khát vọng; và nhìn vào lịch sử, thì chính đó là lứa tuổi đã làm nên các mùa màng lớn, như mùa văn học 1930-1945 trước yêu cầu hiện đại hóa văn học, trong tư cách là các kiện tướng của phong trào Thơ mới, của văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực…; hoặc mùa 1960-1975 trước yêu cầu giải phóng và thống nhất Tổ quốc, trong tư cách nhà văn – chiến sĩ…
Việc thực hiện được cái riêng của thế hệ, và của cá nhân từng người viết là yêu cầu chính đáng và cần thiết để đưa lại một diện mạo mới cho văn học qua các thời kỳ.
Rõ ràng cái vốn căn bản đầu tiên để chúng ta hy vọng và trông đợi ở một thế hệ viết – đó là sức trẻ, là tuổi trẻ. Không có một cuộc cách mạng nào trong lịch sử, kể cả cách mạng văn học mà không được thực hiện bởi một lực lượng trẻ. Ở cuộc chuyển động lần thứ nhất, thời 1930-1945, người nhiều tuổi nhất là Ngô Tất Tố (sinh 1893), viết Tắt đèn ở tuổi 45, và Khái Hưng (sinh 1896) viết Hồn bướm mơ tiên ở tuổi 37; cả hai rất hiếm hoi đã vượt được áp lực tuổi tác để đứng ở hàng đầu hai trào lưu hiện thực và lãng mạn; còn tất cả, hoặc hầu hết những người viết khác đều thực hiện được khát vọng văn chương của mình ở tuổi 20 đến 30; trong đó những tên tuổi sáng giá như Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính… đều ở tuổi ngoài 20 hoặc ngót 30.
Mấy thế hệ viết sau 1945, cũng đã đến được hoặc đạt đỉnh cao sáng tạo của mình ở tuổi 20 đến 30, như Trần Đăng, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu…, trong mở đầu và kết thúc văn học chống Pháp, rồi gối sang thời chống Mỹ như Hữu Mai, Nguyễn Khải, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Hồ Phương, Nguyễn Sáng, Phan Tứ, Anh Đức…; tiếp đến là lứa 20 văn học chống Mỹ gối sang thời Đổi mới như Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Đỗ Chu, Lê Lựu, Nguyễn Đức Mậu, Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Duy, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh…
Trở lại hơn 30 năm qua, tính từ sau 1990, đời sống văn học chúng ta vẫn có sự xuất hiện đều, và càng về sau càng nhiều những tên tuổi mới. Nhưng dường như tất cả họ vẫn chưa hội được thành một đội ngũ, trong một cuộc hành trình không lẫn vào nhau, nhưng cũng không quay lưng với nhau; với cái gọi là “cá tính sáng tạo” thật sự, được xác định bằng chính nội lực bản thân, mà không cần gây “sốc”; được chấp nhận không phải chỉ ở một vài cây bút phê bình hoặc nhà văn cấp tiến mà là số đông người đọc, tôi tin không phải tất cả đều bảo thủ…
Xét theo lịch sử thì 50 năm qua, đó là một thay đổi hiếm có, hoặc chưa từng có. Để từ chiến tranh (những hơn 30 năm) chuyển sang hòa bình (50 năm). Từ đất nước bị chia cắt (hơn 20 năm) đến đất nước thống nhất (50 năm). Từ giao lưu hẹp đến giao lưu rộng… Những chuyển động như thế phải nói là rất lớn. Lớn và cũng có tầm một cuộc chuyển giao tựa như chuyển giao từ thế kỷ XIX sang thế kỷ XX, đưa đất nước từ trạng thái phong bế, lạc hậu vào một cuộc Canh tân. Lớn như Cách mạng tháng Tám 1945 làm thay đổi chế độ. Tiếp tục thành quả của Cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến, Đổi mới, rồi Hội nhập – đó là một cuộc lên đường mới của dân tộc để rút ngắn những so le lịch sử giữa dân tộc và thời đại.
Để có đủ tiềm lực và hành trang cho một chuyển đổi mang tính cách mạng như thế, văn học, cũng như bất cứ lĩnh vực nào khác, kể cả kinh tế, chính trị, cần đến những lực lượng trẻ; mà nói trẻ là nói đến những thế hệ trên dưới tuổi 30, thậm chí là trong ngoài 20. Chứ không thể là 60 – hoặc hơn, thậm chí 50, hoặc 40.
Ngót 40 năm trong sự nghiệp Đổi mới, chẵn 50 năm sau khi kết thúc chiến tranh, tính đến thời điểm 2025 lịch sử này – đó là một thời gian không ngắn, nếu so với các chu kỳ biến động của đời sống và sinh hoạt văn học Việt Nam thế kỷ XX… 40 năm và 50 năm – đó là sự đồng hành của bốn (hoặc năm) thế hệ viết; và thế hệ tiếp nối, thế hệ có trách nhiệm nhận sự chuyển giao, trong mở đầu thế kỷ XXI này, có khác với tất cả các thế hệ trước, gần như không phải chịu một sức ép nào của truyền thống, của lịch sử, mà chỉ chịu một sức ép lớn nhất và duy nhất là sức ép của thời đại, trong một cuộc hội nhập mà dân tộc gần như không thể tránh, nếu không nói là phải dũng cảm đón nhận trong tư thế chủ động, để khỏi bị đẩy ra khỏi “đường ray của con tàu phát triển”.
Cần một cách nhìn như thế để chúng ta có đòi hỏi cao đối với một thế hệ viết mới – thế hệ tuổi 20 đến 30; và để không ngạc nhiên trước những gì rồi sẽ diễn ra – tôi hy vọng thế, như đã diễn ra trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, nếu lấy con mắt Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh mà nhìn Nguyễn Ái Quốc; nếu lấy con mắt Nguyễn Khuyến, Tú Xương mà nhìn Hồ Biểu Chánh, Tản Đà; nếu lấy con mắt Tản Đà và Hoàng Ngọc Phách mà nhìn Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Tuân, Nam Cao… Còn hơn một sự thay thế, đó còn là một đứt gãy tự nguyện, không hề gây tiếc nuối hoặc đau đớn. Bởi phải một thế hệ trẻ, hoặc rất trẻ, vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, lại vừa là chủ thể của hoàn cảnh, với bản lĩnh cá nhân và sức mạnh của đội ngũ, mới mong đưa đời sống văn học vào một bước ngoặt, mang tính cách mạng, như đã từng diễn ra trong 15 năm – từ 1930 đến 1945; và đang tiếp tục được đón đợi, với quy mô và tầm vóc chắc chắn là còn lớn hơn gấp nhiều lần vào đầu thế kỷ XXI, sau 50 năm đất nước trong Hòa bình, Đổi mới và Hội nhập.
Quang cảnh Hội thảo tổng kết “Văn học Việt Nam sau năm 1975 thành tựu, vấn đề và triển vọng”.
Là người viết và cũng là người đọc thuộc thế hệ sống trọn vẹn trong 3 cuộc chiến chống xâm lược, và chống đói nghèo suốt hơn nửa thế kỷ, tính từ sau 1945 cho đến hết thập niên 1990, tôi rất mong mỏi có những đổi thay lớn trong tương lai văn học nghệ thuật nước nhà đang chuyển sang vai các thế hệ trẻ – là sản phẩm và là chủ thể của hiện thực mới hôm nay, của chính cái thời chúng ta đang sống hôm nay. Được đồng hành với họ, được chứng kiến sự xuất hiện và thay thế của họ cũng đã là hạnh phúc lớn!
Gần đây, may mắn được đọc bài viết Người viết trẻ tự vẽ những đường bay của nhà phê bình – nhà thơ Hoàng Đăng Khoa, sinh năm 1977, hiện công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, đăng trên Tạp chí Sông Hương số 12-2021. Bài viết giúp tôi được biết một Danh sách các tác giả trẻ ở tuổi trên dưới 30, đúng như mong mỏi của tôi.
Danh sách 1 gồm 13 người, với năm sinh và tác phẩm:
Minh Moon (sinh năm 1986) viết Hạt hòa bình; Đinh Phượng (sinh năm 1989) viết Nhụy khúc, Chuyến tàu nhật thực và Nắng Thổ Tang; Nguyễn Dương Quỳnh (sinh năm 1990) viết Thăm thẳm mùa hè; Nhật Phi (sinh năm 1991) viết Người ngủ thuê; Phạm Bá Diệp (sinh năm 1991) viết Urem người đang mơ; Thành Châu (sinh năm 1991) viết Hỏa Dực; Đức Anh (sinh năm 1993) viết Tường lửa, Thiên thần mù sương và Đảo bạo bệnh; Hoàng Yến (sinh năm 1993) viết Săn mộ – Thông Thiên La Thành và Thượng Dương; Huỳnh Trọng Khang (sinh năm 1994) viết Mộ phần tuổi trẻ, Những vọng âm nằm ngủ; Đặng Hằng (sinh năm 1995) viết Nhân gian nằm nghiêng; Phạm Giai Quỳnh (sinh năm 1997) viết Trăng trong cõi; Nguyễn Bình (sinh năm 2001) viết Cuộc chiến với hành tinh Fantom, Cao Việt Quỳnh (sinh năm 2008) viết Người Sao Chổi: cuộc chiến vòng quanh thế giới…
Cùng với lời bình của Hoàng Đăng Khoa, đặt ở đầu: “…Đành rằng văn chương không thể đóng cửa trước những vang động của đời, nhưng nhà văn nếu cần anten đủ thính nhạy thì không nhất thiết phải thực hành những chuyến “thực tế sáng tác” cưỡi ngựa xem hoa hời hợt vô bổ”… Và ở cuối, sau khi điểm 19 tên sách của 13 tác giả đã đặt câu hỏi tu từ: “Họ biết đi thực tế sáng tác ở đâu, khi mà cái gọi là hiện thực trong các truyện dài/ tiểu thuyết của họ đều hoặc là hiện thực ngoài hiện thực, hoặc là hiện thực ở thì tương lai, hoặc là hiện thực thuộc về thời đại đã lùi xa – thời đại mà họ chưa được sinh ra?”
Danh sách 2 có 15, gồm những tay bút “đa năng/ nhiều trong một” với “trữ lượng chữ vạm vỡ”:
Văn Thành Lê (sinh năm 1986): nhà văn, nhà phê bình; Đào Lê Na (sinh năm 1986): nhà phê bình, nhà văn; Nguyễn Thị Thúy Hạnh (sinh năm 1987): nhà thơ, dịch giả, nhà phê bình; Hà Hương Sơn (sinh năm 1986): nhà thơ, nhà văn; Lữ Mai (sinh năm 1988): nhà thơ, nhà văn; Nguyễn Thị Kim Nhung (sinh năm 1990): nhà thơ, nhà văn; Nguyễn Thị Thùy Linh (sinh năm 1991): nhà thơ, dịch giả, nhà văn; Meggie Phạm/ Phạm Phú Uyên Châu (sinh năm 1991): nhà văn, nhà phê bình; Hiền Trang (sinh năm 1993): nhà văn, nhà phê bình, dịch giả; Phan Đức Lộc (sinh năm 1995): nhà văn, nhà thơ; Phạm Thu Hà (sinh năm 1996): nhà văn, dịch giả; Nguyễn Đình Minh Khuê (sinh năm 1996): nhà phê bình, nhà văn; Lê Quang Trạng (sinh năm 1996): nhà văn, nhà thơ; Vĩnh Thông (sinh năm 1996): nhà văn, nhà thơ; Hương Giang (sinh năm 1997): nhà thơ – nhà phê bình.
Cuối bài, có thêm 2 tác giả là Nhung Nhung (sinh năm 1991) và Hoàng Thúy (sinh năm 1992).
Chắc chắn là còn nhiều chục tên tuổi khác chưa được dẫn ở đây. Nhưng chỉ với 30 tác giả, nếu thực sự tất cả đều là những tài năng, có được số bạn đọc lớn, không chỉ gây được sự chú ý mà còn tạo được ấn tượng khiến người đọc không thể bỏ qua thì đó là cả một đội ngũ đáng tin cậy. Một đội ngũ xứng đáng đóng vai trò chủ công để thay thế cho các thế hệ làm nên gương mặt văn chương thế kỷ XX, qua ba mùa gặt lớn: 1930-1945, 1945-1975 và 1980-1995 như tôi đã nói trên.
Tôi đặt hy vọng nhiều vào sự thay thế, hoặc chuyển ngôi này – như một biểu tượng của sự phát triển, thuận theo quy luật. Và như vậy là có sự gặp nhau giữa hai thập niên đầu thế kỷ XX và XXI, khi thời cuộc chuyển sang một quỹ đạo mới, một bước ngoặt mới, như một thay thế, thậm chí là đứt gãy mà không gây nên xáo trộn hoặc xúc động gì lớn trong tất cả mọi lực lượng còn viết hoặc đã ngừng viết.
Trở lại bài viết của bạn đồng nghiệp Hoàng Đăng Khoa với danh sách 30 tên tuổi thuộc thế hệ trẻ tôi có may mắn được biết mà chưa được đọc, được làm quen, và được vui sướng chứng kiến một cuộc chuyển ngôi đang diễn ra trong sự phát triển của văn học hôm nay, một hôm nay đã đi qua hơn hai thập niên – tức là hơn hai cuộc chiến chống Pháp (1945-1954), hơn hai cuộc chiến cả nước chống Mỹ (1965-1975), hơn hai hành trình từ Đổi mới đến Hội nhập (1986-1995). Và đó nên chăng là một dấu hiệu lạc quan khiến cho tất cả mọi lực lượng viết cùng vui vẻ? Dẫu vậy, vẫn còn một băn khoăn nhỏ khi được đọc đoạn mở đầu bài viết của Hoàng Đăng Khoa nhằm “minh định khái niệm “trẻ”: “Trẻ ở đây là chỉ xét về độ tuổi, cụ thể là dưới 35, theo quy ước tạm thời tương đối hiện hành của Hội Nhà văn Việt Nam. Phải nói như vậy để “khuyến cáo” những cái nhìn trịch thượng, những xoa đầu kẻ cả, những ngộ nhận mặc định, rằng trẻ là đồng nghĩa với xanh non, đồng nghĩa với thiếu kinh nghiệm cả về sống lẫn viết, đồng nghĩa với cần phải khiêm tốn tầm sư học đạo”.
Ở đây có lẽ bạn đồng nghiệp Hoàng Đăng Khoa hơi nặng lời với một số đối thủ vô hình nào đó mà tôi cho là không có. Phần tôi trong theo đuổi nghề nghiệp trên dưới 60 năm tôi chưa bao giờ, chưa một lần nào dám trịch thượng, xoa đầu với bất cứ ai mà chỉ có mừng vui vì một tên tuổi mới xuất hiện, thuộc thế hệ 4X như Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ…; thuộc thế hệ 5X như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa…; thuộc thế hệ 6X như Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Y Ban, Nguyễn Bình Phương…; thuộc thế hệ 7X như Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Bích Lan, Nguyễn Đình Tú, Đỗ Bích Thúy, Phan Thúy Hà … đến thế hệ 8X với mở đầu là Vi Thùy Linh… Và một tấm lòng biết ơn với tất cả những bậc thầy, bậc anh đi trước trong cả hai giới sáng tác và nghiên cứu phê bình…
Điều tôi muốn chia sẻ và đồng tình với Hoàng Đăng Khoa, đó là câu hỏi: “Những người viết trẻ họ ở đâu trên bản đồ văn chương của Hội Nhà văn Trung ương? Câu trả lời là họ vắng mặt, từ danh sách hội viên (trừ một vài cái tên như Văn Thành Lê, Lữ Mai, Đinh Phương, Meggie Phạm, Lê Vũ Trường Giang) đến danh sách giải thưởng 5 năm hay giải thưởng hằng năm, đến danh sách khách mời các cuộc tọa đàm hội nghị hội thảo (trừ hội nghị viết văn trẻ toàn quốc nếu diễn ra vào khung thời điểm họ đang còn “trẻ”)”. Câu hỏi này tôi hy vọng được trả lời trong nhiệm kỳ mới này của Hội Nhà văn. Nhưng theo tôi, dẫu câu trả lời là thế nào đi nữa thì vấn đề cơ bản vẫn là năng lượng, là bản lĩnh, là cốt cách của một người viết chân chính, mà không cần nương dựa hoặc phụ thuộc vào bất cứ một điểm tựa nào đến từ bất cứ đâu, như bất cứ người viết chân chính nào trong lịch sử văn chương dân tộc.
Được đồng hành với nhau là niềm vui. Thay thế nhau, hoặc đứt gẫy cũng là niềm vui, có khi còn vui hơn cho sự đổi thay, sự vượt lên, sự trưởng thành của một nền văn học, qua các bước ngoặt lịch sử – ít nhất là hai bước ngoặt như chúng ta được biết, được chứng kiến, được sống ở hai đầu thế kỷ XX và XXI, sau 1000 năm văn học viết trung đại gần như đứng yên một chỗ mà vẫn có hai đỉnh cao vòi vọi là Bình Ngô đại cáo và Truyện Kiều bất hủ./.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.