• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Diễn đàn lý luận
 
CHẾ LAN VIÊN - MỘT ĐỊNH NGHĨA CHUẨN VỀ NHÀ VĂN - NGHỆ SĨ

CHẾ LAN VIÊN - MỘT ĐỊNH NGHĨA CHUẨN VỀ NHÀ VĂN - NGHỆ SĨ



                                                                                        Đoàn Trọng Huy

 

 

 

 

Từ khi cầm bút,Chế Lan Viên (1920-1989) đã có định nghĩa về thi sĩ, về việc làm thơ (tựa Điêu tàn). Quan niệm sai lầm – coi làm thơ là làm việc phi thường, nhà thơ là người siêu phàm, đã bị chính Chế Lan Viên phủ nhận. Từ sau Cách mạng, nhiều lần nghĩ lại, viết lại, qua văn và thơ, Chế Lan Viên đã xây dựng cho mình một bộ Điển pháp thơ có ý định bao quát toàn bộ những vấn đề về thơ (thơ, nhà thơ, nghề thơ) và có thể mở rộng ra về nghệ thuật. Nhưng lý luận về thơ của Chế Lan Viên có độ tin cậy cao vì đó là những thể nghiệm thực tiễn bản thân – qua thành tựu xuất sắc của chính nhà thơ.

 

Chế Lan Viên đã đứng trên nhiều tư cách để phát ngôn. Đó là đặc điểm đa nhân cách của một nhà văn lớn.

 

Với thiên chức hiểu biết, khám phá, sáng tạo của nhà văn – nghệ sĩ nói chung, ta có thể thấy, đã thấy và cần làm nổi bật tư cách ­nhà thơ – nhà nghệ sĩ, nhà thơ – nhà tri thức, nhà khoa học của Chế Lan Viên.

 

 

 

Chế Lan Viên – Người hiểu biết

 

Với tư cách và chức năng này ta thấy Chế Lan Viên trước hết là người hiểu biết, suốt đời học hỏi để bồi đắp kho tàng tri thức cá nhân. Sức đọc, sức học của Chế Lan Viên là cực kỳ lớn, vượt giới hạn thông thường của một người làm thơ. Nhiều ý kiến đã xác nhận: Chế Lan Viên là một trí tuệ uyên bác. Sự hiểu biết của nhà thơ có thể thâu tóm vào ba phạm trù:

 

1) Hiểu biết văn thơ trong hệ thống tổng thể văn học nghệ thuật.

 

Chế Lan Viên thường thâu tóm kiến thức trong hệ không gian và thời gian. Ông gắn kết chặt chẽ thơ và văn xuôi, nghiên cứu tiếp thu kho tàng văn học truyền thống, vận dụng quy luật tiếp biến xưa và nay, xác định chính xác tính dân tộc – hiện đại truyền thống là giống Lý – Trần và giống những thế hệ mai sau/ Giống những năm tháng sẽ khai hoang, những chân trời sẽ vỡ/ Chớ chỉ tìm dân tộc phía đằng sau. Một phương hướng xác định rất chính xác.

 

Ta nối liền ta trong bề dọc thời gian, câu thơ thế kỷ hai mươi với hồn cha ông trong Truyện Kiều, Chinh phụ…

 

Nhưng dân tộc cũng là ta, cùng nhịp đập với tim ta trong bề ngang không gian trước đã.

 

Làm cho tiếng trong sáng giàu và phát triển có kết luận: “Phải bảo vệ sự trong sáng của nước đồng thời mở đường cho nước chảy”. Từ gác Khuê Văn đến Quán Trung Tân có một bình luận sắc sảo… “Cha ông không chỉ là chỗ tựa, là đường băng cho ta cất cánh. Cha ông còn có thể tiếp lửa vào sức đẩy thêm chất đốt của ta trong cuộc hành trình”. Đó là những tiểu luận mẫu mực.

 

Chế Lan Viên gắn thơ với họa, với nhạc lại còn biết gắn bó với vũ kịch nữa. Múa rối và thơ tìm ra đặc điểm chung của các loại hình nghệ thuật (kể cả sân khấu – điện ảnh – điêu khắc) và rút ra những nguyên lý sáng tạo như hiện thực gắn lãng mạn, vừa chân vừa ảo, tiếp thụ và biến hoá…

 

Nếu muốn trở thành nhà thơ lớn, theo Chế Lan Viên và như ông, phải là người có kiến thức toàn diện về nghệ thuật, hơn thế, là nhà nghệ sĩ. Ông cũng là nhà văn hoá, rất có văn hoá thơ, làm thơ trở nên văn hoá. Có thể thấy Chế Lan Viên là người đi qua được nhiều nền văn hoá cổ, kim, đông, tây và biết chưng cất tinh hoa từ đó để làm nên mình – một đầu óc thông tuệ hiếm có.

 

2) Hiểu biết sâu rộng trong văn và ngoài văn, tri thức khoa học đời sống, xã hội

 

Khi nói về bước đầu tập viết, Chế Lan Viên đã nhắc ý kiến của một nhà thơ nước ngoài: “Cái chỉ là thơ thôi, giết chết thơ”. Về ảnh hưởng của truyền thống lịch sử, văn hoá của quê hương Bình Định, Chế Lan Viên từng nói: “Tôi đã gặp cả một vùng, một trung tâm thơ, trung tâm văn học là Quy Nhơn” và tâm đắc “Nhớ biết bao người, bao cảnh, bao sự việc đã giúp mình nên người, nên văn ở đây” (Bước đầu của tôi)(1). Người ta nói: Bất cứ ai cũng cần qua trường đại học đời sống với ý nghĩa là thu nhận tri thức và cũng để cọ xát, vận dụng tri thức trong muôn mặt đời thường cho dù đã có một trình độ tri thức nhất định. Bằng con đường tự học, tự đào tạo nhà thơ có trình độ hiểu biết được những kiến thức cơ bản về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên vì vậy rất hiện thực và cập nhật nhiều khi gây được hiệu quả rất cao. Một câu thơ dùng đến cả thuật ngữ quân sự: Có những câu thơ đất – đối – đất/ Vẫn phải qua trời bằng những đường cong, có những câu thơ phải bắn cầu vồng/ Dù người nhắm vẫn là nhắm thẳng.

 

Lại có khi là thuật ngữ – cũng là kiến thức – về sinh học: Tạo ra một giống thơ như một giống lợn nạc nhiều/ Có đùi to, mông to, mười sáu cặp sườn, lắm vú…/ Hôn phối nhiều loại thơ để cho ra loại thơ ưu tú/ Những F1 mượt lông nhiều sữa; về toán học: Vực sự sống chiếu lên trang thơ/ hai mặt phẳng (Thơ bình phương. Đời lập phương II) có đoạn thơ thú vị là sự hoà trộn chuyên môn của nhiều khoa học qua gần hai mươi định nghĩa về chữ: Chữ được mùa/ Chữ ủ chua/ Chữ phóng xạ/ Chữ mùa trăng và chữ đêm rằm/ Chữ lên men/ Chữ thành “gien”, mật mã/ Chữ đu bay, voi lồng/ Chữ múa kiếm trên dây/ Chữ thành tượng đá/ Chữ lặng theo cách thiền tông, tất cả tâm hồn đảo ngược vào trong/ Chữ hừng đông và chữ chớp đông/ Chữ ra đòng/ Chữ hồng huyết cầu, tế bào vỏ não/ Chữ thụ phấn, thụ tinh sáng tạo… (Bài đã dẫn trên). Đây không hẳn là việc khoe chữ nghĩa mà chỉ là sự vận dụng tinh khéo  thuật ngữ khoa học và đời sống.

 

Chế Lan Viên không nghiên cứu tôn giáo nhưng hiểu sâu và kỹ kinh Phật và kinh thánh đạo Thiên chúa. Khoa học mà ông nắm chắc là triết học, đã từng đi qua siêu hình học để đến logic học, qua duy tâm để đến duy vật, nắm vững triết học mácxít với duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

 

Nhìn chung nhà thơ có nhiều tố chất của một nhà khoa học, có tư cách đầy đủ của một nhà trí thức. Là trí thức kiểu cũ, đi sâu vào đời sống sôi động của sản xuất, chiến đấu, thâu lượm trí tuệ thực tiễn của quần chúng nhân dân, Chế Lan Viên trở nên đại diện trí thức cách mạng của thời đại mới.

 

3) Hiểu biết tinh thông nghề nghiệp cũng là một tài năng nổi trội của Chế Lan Viên.

 

Chế Lan Viên là người biết nghề, biết hành nghề một cách điêu luyện. Lại rất có lương tâm nghề nghiệp, suốt đời duyên nợ văn chương “đã chọn cho mình một cái ách nặng” (Phan Thị Vàng Anh). Ông muốn trao đổi về văn thơ và truyền nghề cho thế hệ trẻ, viết sách, viết lý luận hẳn hoi nhưng thực chất là tâm truyền – truyền thụ những gì gan ruột nhất qua trải nghiệm một đời.

 

Thực ra Chế Lan Viên kết hợp trong mình một nghề mà ba “nhà”: Nhà sáng tác, nhà phê bình, nhà lý luận. Là người sáng tác có hồn cốt lý luận giàu thực tiễn, là nhà phê bình nghệ sĩ giàu chất văn chương, phê bình có lý lẽ mà vẫn tươi xanh chất đời. Khối lượng tiểu luận phê bình khá đồ sộ và có giá trị cao: Nói chuyện văn thơ, Vào nghề, Nói chuyện thơ đầu xuân, Nghĩ cạnh dòng thơ, Ngoại vi thơ… Thơ Tố Hữu, Thơ Yến Lan, Thơ Hàn Mặc Tử, Thơ đánh Mỹ cứu nước… có thể kể thêm một số tiểu luận trên các diễn đàn quốc tế cũng khá phong phú. Ngoài ra còn một nhà nghiên cứu Chế Lan Viên, về kho tàng văn thơ của dân tộc, từ dân gian đến bác học, từ trung đại, cận đại đến hiện đại cũng có đóng góp sâu sắc.

 

 

 

Chế Lan Viên – Người khám phá

 

Khi đã có một cái nền tri thức, văn hoá bề thế, sự khám phá mới có sức lực và đạt hiệu quả mong muốn.

 

Khám phá đồng nghĩa với phát hiện. Có mấy khuynh hướng chính:

 

1) Khám phá cái quen thuộc. Sự khám phá này phải có phương pháp, cách thức và cách nhìn khoa học. Lại phải chống bảo thủ – như sức cản vô hình; phải biết dấn bước dũng cảm, có khi sự dụt dè e ngại ở ngay bản thân: Giữa đời và anh, chớ lấy tác phẩm cổ kim ra che mắt/ Những cái bể văn chương án ngữ phía bên này không cho thấy bên kia.

 

Lời kêu gọi lên đường mạnh dạn: Ra đi, chạm vào các cơn bão, ngọn gió bất ngờ thổi vào bốn bức tường quen thuộc/ Nhìn cuộc đời phía dưới, phía trên, phía sau, phía trước/ Dù ở lại bên lòng, xin hãy cứ ra đi!

 

Nhà thơ, mỗi ngày cần và “có quyền cầm trái đất và cân” Cầm nó trên tay và định giá/ Cầm nó bên này và lật ngược phía bên kia. Một câu quen thuộc: Xưa như trái đất. Vậy mà vẫn phải “đảo đi”, “lật lại” “Xem ở đâu có bùn và ở đâu có máu/ Đâu là chân lý và đâu không phải nó” (Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…). Đó là thái độ khoa học, thực sự cầu thị tìm tòi và khám phá. Lạ hoá chính là một cách khám phá cái quen thuộc, cái tưởng như đã trơ mòn.

 

2) Khó hơn một mức là khám phá để phát hiện cái mới.

 

Phải phát hiện trên nhiều bình diện, nhiều cấp độ để thấy nhiều đặc điểm, tính chất khác nhau, đi đến những định nghĩa khác nhau hoặc bổ sung, hoặc phủ định. Thực ra, có cách nhìn mới thì có thể phát hiện được.

 

Sao trên trời mỗi đêm anh cần thắp lại

 

Sông Ngân Hà chảy nhờ anh mà nó chảy

 

Những ngôi sao trên trời đổi ngôi, nhờ anh mà nó đổi ngôi

 

Mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây

 

Đều có cái gì của đời không giống trước.

 

Nghĩa là phải có con mắt tinh đời, cái tai thính nhạy với một đầu óc biện chứng.

 

3) Cái khó hơn cả là giải mã cái bí ẩn, cái khó lý giải, cái chưa hoặc không thể lý giải được. Có tài năng thiên phú nhưng “cái lửa” trời cho rồi cũng hết, phải biết húc vào những sự kiện, hiện tượng, vào cõi bí mật của lòng người bị khuất lấp, che giấu. Trước mặt lại lù lù cái tảng đá Thiên Sơn khắc nghiệt/ Bắt anh đập đầu vào đó mà tìm thơ, tìm lửa (Nghề của chúng ta). Quả cảm nhưng có chút gì như mạo hiểm!

 

 

 

Chế Lan Viên – Người sáng tạo

 

Thực ra sáng tạo là yêu cầu cho tất cả mọi người, dù ở ngành nghề, địa hạt, phạm vi nào của lao động, hoạt động. Sáng tạo sẽ sinh ra cái mới, cái tiến bộ. Tuy nhiên cách sáng tạo của nghệ sĩ và nhà khoa học có nét khác nhau. Sáng tạo trong nghệ thuật thường gắn với cách tân.

 

1) Sáng tạo là làm ra cái mới. Như tìm ra một nội dung hoặc một hình thức phù hợp nội dung mới. Hình thức cũng là vũ khí.

 


 

Xưa thơ chỉ hay than mà ít hỏi

 

Đảng dạy ta thơ phải trả lời.

 

(Nghĩ về thơ)

 

 

 

Xưa tôi hát mà nay tôi tập nói

 

Chỉ nói thôi mới nói hết được đời.

 

(Sổ tay thơ)

 

 

 

Đối lập xưa và nay dễ tìm được ra cái mới: từ than đến hỏi, từ hỏi đến trả lời, từ hát đến nói là những đổi thay tạo ra bước tiến mới. ấy là chưa kể hát với nhiều nhịp điệu mới, nói với nhiều sắc thái mới.

 

2) Sáng tạo là đổi mới. Đổi mới cái cũ thường theo hai cách. Có khi là cái cũ – nội dung cũ – nhưng có biểu hiện mới – có khi là cái mới hoàn toàn – cả nội dung và hình thức: Gié lúa nhiều thế kỷ cầm lên còn lép hạt/ Đảng bảo ta thay giống lúa xưa và thay cả những luống cày. (Sổ tay thơ) Nghĩa là phải cơ bản, phải triệt để. Trong nghệ thuật có khi phải thay đổi cả hệ mỹ học, thay đổi cả tư tưởng nghệ thuật, cả hệ thống thi pháp.

 

3) Sáng tạo là phát huy bản lĩnh nghệ thuật để làm ra cái mới tân kỳ, độc đáo.

 

Khác với sáng tạo khoa học, sản phẩm của nghệ thuật là cái mới lạ độc đáo, không thể sao chép. Ca chung chế độ/ Trên niềm riêng tôi. Một đời Chế Lan Viên đã tâm niệm và làm được cái điều kỳ diệu đó.

 

Lấy đá mới tạc nên thần mới

 

Mang nụ cười chưa có nghìn xưa.

 

Là nhà thơ dấn bước mạnh dạn và kiên trì trên con đường tìm tòi đổi mới, Chế Lan Viên đã tạo ra được quan niệm, tư tưởng của hệ mỹ học mới mang đậm dấu ấn, nét cá tính sáng tạo. Chế Lan Viên thành công trong hệ thống thi pháp mới nhưng cũng khuyến khích những sáng tạo cho thi pháp “mở”. Bởi phong cách, thi pháp Chế Lan Viên là phong cách, thi pháp lớn đa dạng, phong phú Thi pháp đá và thi pháp lửa/ Thi pháp núi và thi pháp đất – Thi pháp đứng từ xa, trên non cao nhìn vạn vật. Tóm thâu tất cả trận đồ trong một câu, một cái nhìn. Thi pháp nhảy vào giữa trận – Chịu từng vết thương/ Thi pháp nhập thế và xuất thế… (Thi pháp (I) – Di cảo III) – Những bài Quan niệm thơ – Đường đi chân đất trong tập thơ này cùng khuynh hướng tư tưởng nghệ thuật đó. Bởi xét cho cùng không ai độc quyền sáng tạo. Cái mới hôm nay rồi một lúc nào đó lại bị vượt lên bởi cái mới khác. Đó cũng là tư duy biện chứng của nhà thơ – nghệ sĩ – nhà khoa học Chế Lan Viên.

 

 Nguồn: Tạp chí Nhà văn



Tin tức khác

· HỮU LOAN - NHÀ THƠ MỘT THỜI
· CẦN VINH DANH NGƯỜI CÓ CÔNG ĐẶT NỀN MÓNG ĐÀNG TRONG
· LỊCH SỬ BỊ BÓP MÉO, PHÁP LUẬT BỊ BẺ CONG
· NHÀ THƠ XUÂN HOÀNG - LÒNG TÔI THÀNH CÁNH GIÓ LUNG LINH
· NHƯ LÀN HƯƠNG VÀ GIỌT SƯƠNG MAI - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· TỪ BỤC GIẢNG ĐẾN TÁC PHẨM - HÀNH TRÌNH LAN TỎA YÊU THƯƠNG
· VỊ THÁM HOA NÀO 10 NĂM GIỮ CHỨC TỂ TƯỚNG KHIẾN THIÊN HẠ YÊN VUI!
· BA NHÂN VẬT CÓ THẬT TRONG LỊCH SỬ XUẤT HIỆN TRONG MINH GIÁO GỒM NHỮNG AI?
· VÌ SAO KINH THÁNH KHÔNG HỀ NHẮC ĐẾN KIM TỰ THÁP AI CẬP?
· NHỮNG GIỌT SƯƠNG BAN MAI TINH KHIẾT - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· 'NHIỆM VỤ BẤT KHẢ THI' CỦA NỮ TÌNH BÁO MANG BÍ SỐ B3 CÙNG ĐIỆP VIÊN PHẠM XUÂN ẨN
· VÌ SAO LÊ ĐẠI CANG ĐƯỢC XEM LÀ 'BẬC HIỀN TÀI TOÀN NĂNG' CỦA TRIỀU NGUYỄN?
· LẮNG NGHE ƯU TƯ CỦA HIỀN GIẢ - Tiểu luận HỒ ANH THÁI
· NGÀN NĂM CHĂM PA TRONG VĂN HÓA XỨ QUẢNG
· DÒNG THƠ VĂN CỦA THANH TÂM TUYỀN - Tiểu luận ĐẶNG TIẾN
· TRẦN QUÝ HAI - VỊ TƯỚNG UY DŨNG
· TOP 5 QUÂN SƯ KIỆT XUẤT CỦA TAM QUỐC DIỄN NGHĨA, GIA CÁT LƯỢNG XẾP THỨ MẤY?
· TÔ THÙY YÊN - NHÀ THƠ VIỆT NAM
· DÓNG DANG CHĂMPA TRONG HỒN THƠ BÀN THÀNH TỨ HỮU
· VÌ SAO LÊ THÁI TỔ ĐỔI TÊN LAM SƠN THÀNH LAM KINH?

Tin tức mới
♦ CHÙM THƠ PHẠM PHƯƠNG LAN - HỐT HOẢNG GIẬT MÌNH NGÀY RƠI QUA VAI... (30/11/2025)
♦ BỘI PHẢN - Truyện ngắn của BẢO NINH (30/11/2025)
♦ HỮU LOAN - NHÀ THƠ MỘT THỜI (30/11/2025)
♦ CẦN VINH DANH NGƯỜI CÓ CÔNG ĐẶT NỀN MÓNG ĐÀNG TRONG (30/11/2025)
♦ LỊCH SỬ BỊ BÓP MÉO, PHÁP LUẬT BỊ BẺ CONG (29/11/2025)
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1819050
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 69303
Truc tuyen Trực tuyến: 2

...

...

Designed by VietNetNam