TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
CHÙM THƠ ĐÀO QUỐC MINH
CHÙM THƠ ĐÀO QUỐC MINH
Con mọt nhỏ Em nghe chăng tiếng gọi của nỗi buồn
Khi bóng quạ ngậm mảnh trăng lam
Bay chập chờn trên từng ô ngói vỡ
Suốt trăm năm trong ngôi chùa bóng đổ
Người nay sao đã lãng quên rồi
Con mọt nào trong tượng Phật, mồ côi
Nghe như tiếng mõ cầu hồn
Cho một nén trầm, một hoàng hôn
Một vương triều đã mất
Ngoài sân đá rêu phong lá vàng rơi
Chú tiểu già nua ngủ gật
Bỗng giật mình chạm tóc trắng hai vai
Tiếng mọt nào như tiếng cửa Thiên Thai
Nghe cót két nhưng đã lâu lắm rồi
Bụi phủ đầy trên từng song gỗ mục
Con mọt nhỏ trong ngôi chùa
Đã biết bao nhiêu thiền sư hoàn tục
Vẫn dai dẳng âm thầm
Đợi nỗi buồn thoát xác bay đi
Em nghe chăng trong cõi từ bi
Tiếng chuông cuối cùng và bụi khói mịt mù
Vùi chôn con mọt nhỏ
Chú tiểu đứng nhìn, đôi mắt đỏ
Rồi ôm nỗi buồn đi mãi tới chân mây.
Dế mèn Trên khung cửa võ vàng
Người đàn bà ngồi đếm lá hoàng lan
Trông như những đốm lửa lắt lay
Trong đám tang của loài phượng hoàng
Nằm lặng câm ngậm hoàng hôn trên đỉnh núi
Tôi chỉ là con dế mèn trơ trọi
Đã già nua và bò dưới chân tường
Lãng quên rồi trên trần ai tiếng khóc
Và bài thơ, lời hát thuở tha phương
Đời dế mèn còn muốn biết làm chi
Những dòng sông miên man
Chở những người đàn ông
Những đứa trẻ và những người già
Vào đêm sâu mịt mù biển cả
Những tưởng ra đi để thành tượng đá
Mà cuối cùng cát trắng mênh mông
Đời dế mèn khép cánh bên song
Buồn bã lắm và vô vọng lắm
Bởi đôi mắt người đàn bà
Mở to xanh biêng biếc tháng ngày say đắm
Đã khép lại rồi, tiếng nói cũng quên luôn
Trên khung cửa võ vàng
Chỉ còn lại một quả chuông
Treo lặng lẽ trên cành hoàng lan
Một gốc cây khô, lụi tàn và chết chóc
Không ai khóc, bởi không còn tiếng khóc
Bởi dế mèn cũng đã lặng câm.
Tiếng gọi đò & lưỡi gươm 1
Câu hát Truông Bồn, quầng lửa Khe Sanh
Đêm con đò Ô Lâu, chiều Hải Vân bóng nhạn
Cồng Tây Nguyên, dấu chân thù, âm âm tiếng hoẵng
Lũ kiến cánh, đàn bướm vàng, và bầy ong mật
Thầm thì mãi muôn đời trên một trang thơ
Người con gái ngọt ngào, vẫn nằm lại, trong mưa
Mi mắt xanh xao khép hờ như mới ngủ
Nhánh thông rừng, gươm hùm trên nấm mộ
Dòng chữ, tên em, báng súng, máu chiến trường
Cuộc chiến đã qua đi, quầng lửa đã lụi tàn
Tiếng hoẵng xa đi, đôi nhạn bay đi, con đò còn ở lại
Người mẹ lắt lay chẳng thể nào nhớ mãi
Những tên đất, tên sông, tên trận đánh, tên người
Trang nhật kí ngừng ghi tên một ngọn đồi
Nơi những người mẹ đêm đêm cất lên lời ru
Cho những ngọn đồi âm u như từng ngôi mộ gió
Cho những linh hồn đã hóa thành cây cỏ
Trở lại thanh bình sau những giấc chiêm bao
Chẳng ai còn nhớ em nằm lại ở chốn nào
Nhưng tiếng gọi đò năm xưa vẫn điệp trùng ngân mãi
2
Em trở về đây trên cánh đồng
Hỏi lưỡi gươm xưa chém vào đá núi
Thanh gươm bạc đã tan thành dòng suối
Mang mảnh trăng vàng
Lấp lánh đổ sông đêm
Người lính già nua buông lái một con thuyền
Chỉ về phía gò xanh trên ruộng lúa
Đó là núi đã bao đời mòn rũa
Ngủ yên rồi trong tiếng mẹ ru con
Vết chém xưa nay mất hay còn
Chẳng ai biết và cũng không cần biết
Mấy đứa bé trần truồng
Nhảy xuống tắm giữa dòng thanh khiết
Ngàn thu không còn đỏ nữa những Đằng Giang
Em có trở về trên bến đò
Nghe người mù vỗ trống tang tang
Kể câu chuyện mấy ngàn năm bâng khuâng trong nhịp phách
Câu trả lời cuối cùng âm thầm đã lạnh
Người lính bạc đầu cũng đã bỏ đi xa.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.